Thứ Năm, 23 tháng 3, 2017

Vị tướng của Chúa Nguyễn được trâu cứu mạng

Trong cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh, tướng Nguyễn Cửu Kiều vì được trâu cứu khỏi sự truy đuổi của quân Trịnh mà sau này đã quyết định không bao giờ ăn thịt trâu để tri ơn loài vật đã cứu mạng.


Lăng mộ Nghĩa Quận công Nguyễn Cửu Kiều ở thôn Bạch Thạch, xã Lộc Điền, Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế. Ảnh: Gia tộc Nguyễn Cửu.
Theo sách “Đại Nam liệt truyện tiền biên” thì Nguyễn Cửu Kiều người huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung, sử nhà Nguyễn gọi là “quý huyện”, do đây cũng là quê hương của các chúa Nguyễn), tỉnh Thanh Hóa. Cha của ông tên là Quảng, làm quan nhà Lê đến chức Điện tiền Đô kiểm điểm Quận công. Dòng dõi Nguyễn Cửu Kiều vốn được ban họ chúa (quốc tính) là Nguyễn Phúc, đến năm Minh Mạng thứ nhất (1820), để tưởng thưởng công trạng của công thần, vua ban “cho con cháu công thần quốc sơ là Nguyễn Phúc Kiều làm họ Nguyễn Cửu” (gọi là Công tính).

1. Nguyễn Cửu Kiều sinh năm 1559, được cho là “người khảng khái, có chí lớn”, ông tuy là con quan lớn nhà Lê, nhưng thấy chúa Trịnh không theo đạo làm tôi với vua Lê, bèn có tâm hướng về với chúa Nguyễn ở Nam Hà.

Nguyên lúc đó họ Trịnh đã dẹp được họ Mạc, đưa vua Lê từ vùng khởi nghĩa Thanh Hóa về lại kinh thành Thăng Long sau Trịnh Tráng được lên tước vương một chữ, là Đại nguyên soái thống quốc chính sư phụ Thanh vương (trước đó, cha Trịnh Tráng là Trịnh Tùng chỉ mới nhận tước vương hai chữ là Bình An vương, tước vương một chữ cao quý hơn tước vương hai chữ).

Chúa Trịnh lúc này quyền thế che cả bầu trời, ngang nhiên ép vua Lê Thần Tông lấy con gái mình là Trịnh Thị Ngọc Tú, vốn đã lấy bác họ của vua là Lê Duy Trụ và sinh được 4 con, vì Duy Trụ phạm tội bị bắt giam nên Trịnh Tráng mang con gái cho vua Lê. Vua Lê Thần Tông lúc này không còn quyền thế gì, đành phải ngậm ngùi nhận lời.

Năm 1623, Nguyễn Cửu Kiều từ Đông Đô (Thăng Long), nhận mật thư và bảo ấn do chính phi của chúa Trịnh Tráng là Nguyễn Thị Ngọc Tú (con gái chúa Nguyễn Hoàng) giao cho, giả là người đi chọi gà vào Nam theo chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Chúa Trịnh biết, cho người đuổi theo. Kiều đến sông Gianh, không có thuyền mà lính bên Trịnh đã đuổi theo gần đến nơi.

Trong lúc nguy cấp, Kiều bèn khấn rằng: “Sông nếu có thần thiêng thì giúp cho ta qua sông, đừng để giặc bắt”. Rồi bỗng nhiên chợt thấy có một con trâu nằm ở bờ sông, Kiều bèn cưỡi trâu sang sông. Lên đến bờ sông bên này không thấy trâu đâu nữa. Đến Quảng Bình, nhờ tướng Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật tiến cử ra mắt chúa Nguyễn Phúc Nguyên, dâng mật thư và bảo ấn. Chúa Nguyễn mừng quá, cho Cửu Kiều làm Đội trưởng, quản thuyền Mã cơ, sau thăng làm Cai đội thuyền Trung đạo, được gả công chúa thứ ba là Ngọc Đỉnh, rồi thăng đến chức Chưởng cơ.
Từ đường họ Nguyễn Cửu ở xã Vân Dương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Ảnh: Gia tộc Nguyễn Cửu.
2. Năm1633, Kiều ra làm Trấn thủ Quảng Bình. Kiều đến trấn, rộng ban ân tín, vỗ về thương yêu quân và dân, ai cũng hài lòng. Mùa đông năm ấy, quân Trịnh đến xâm lấn, Kiều xin đóng cọc ngăn cửa biển Nhật Lệ, để chống lại. Chúa dùng kế ấy, được hơn mười ngày, quân Trịnh hơi trễ nải, quân Nguyễn đột chiến xông ra đánh dữ, quân Trịnh 
tan chạy.

Năm 1640, tướng Trịnh đã đầu hàng là Nguyễn Khắc Loát lại làm phản, quấy rối châu Nam Bố Chính. Chúa Nguyễn sai Cửu Kiều cùng Trương Phước Phấn đem quân đánh đuổi, lấy được cả đất Bắc Bố Chính. Sau đó chúa Trịnh đưa thư nói Nguyễn và Trịnh là chỗ thế nghị và đòi lại chỗ đất đã bị xâm lấn. Chúa Nguyễn mới sai trả Bắc Bố Chính cho họ Trịnh.

Mùa xuân năm 1648, chúa Trịnh đem hết quân miền Bắc vào đánh cửa biển Nhật Lệ, Cửu Kiều sai Nguyễn Triều Văn đem binh thuyền chống cự nhưng không đánh thắng được. Đàng Ngoài cậy quân nhiều, tiến đóng Võ Xá. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai Thế tử Nguyễn Phúc Tần đem quân đi đánh, được toàn thắng.

Năm 1655 tướng Trịnh giữ châu Bắc Bố Chính là Phạm Tất Đồng thả quân quấy rối ngoài biên, hai tướng kiệt xuất của Đàng Trong là Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật đem quân đi đánh, sai Xuân Sơn làm tiền phong hạ đạo, Cửu Kiều đem quân đi, cũng lệ thuộc vào đấy. Quân Nguyễn tiến đánh ra tận Hà Trung (huyện Kỳ Anh, Nghệ An), quân Trịnh thua chạy. Cửu Kiều đem thủy quân tiến đóng bờ nam sông Đàm, chiêu phủ hai huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, quân và dân miền Bắc về hàng chúa Nguyễn ngày càng đông.

3. Mùa hè năm 1656, quân chúa Nguyễn tiến đến sông Lam, Cửu Kiều kiêm lĩnh chức Thủy sư Phó tướng cùng Tham tướng Tôn Thất Tráng đem binh thuyền thẳng đến cửa biển Đan Nha (tức cửa Hội) đánh thủy binh nhà Trịnh, phá tan được. Gặp lúc thủ lĩnh miền núi là Phù Dương đem binh miền thượng đánh quân của tướng Trịnh là Đào Quang Nhiêu. Quân Trịnh ập đến, quân Phù Dương thua. Cửu Kiều đem quân đến cố sức đánh, chém được tướng miền Bắc là Tào Nham và Diễn Thọ tại trận. Cửu Kiều cũng bị thương nặng, về Quảng Bình thì chết, thọ 
58 tuổi.

Chúa được tin, thương tiếc vô cùng, tặng phong Đặc tiến Phụ quốc thượng tướng quân, Tả quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, Nghĩa quận công. Mộ táng tại núi Bạch, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế. Chúa lại cho lập đền thờ ở xã Dương Xuân (khu vực Gành Đá, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế), cấp cho 50 người coi mộ.

Đền thờ Nguyễn Cửu Kiều tại Dương Xuân bị tàn phá trong chiến tranh giữa nhà Nguyễn với Tây Sơn. Sau khi vua Gia Long lên ngôi, người cháu đời thứ 5 của Nguyễn Cửu Kiều là Nguyễn Phúc An (tước Chánh vệ úy vệ Hổ uy quân Thần sách, Khâm sai Lưu thủ Quảng Trị), vốn theo hầu vua Gia Long, đã về làng Vân Dương, Hương Thủy, quyên góp tiền bạc bà con xây dựng lại từ đường trên phần đất mới nằm trên bờ nam sông Như Ý.

Trong từ đường có treo đôi câu đối của chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng Võ Trung hầu Nguyễn Cửu Thế (cháu nội Cửu Kiều) năm 1709, sau khi ông giúp chúa dẹp loạn (em của Cửu Thế là Khâm Minh hầu Nguyễn Cửu Ta mưu phản):

“Vi đống vi lương, trọng trấn Nam triều lương hữu bật

Thí kim thí ngọc, nhiệm ngô quốc lão điện bàn an”

Dịch nghĩa:

“Làm cột làm rường, trọng trấn Nam triều thật là phụ bật xứng đáng

Như vàng như ngọc, khen người quốc lão giúp cho bàn thạch vững vàng”.

Năm Tự Đức thứ 2 (1849), từ đường được vua ban tặng bức hoành phi ghi 4 chữ “Nhất môn trung nghĩa” (Một nhà trung nghĩa).

Trước kia khi Nguyễn Cửu Kiều sang sông vào Nam được trâu thần giúp sức, hàm ơn mãi, suốt đời không ăn thịt trâu và dặn con cháu khi cúng tế không được dùng trâu.

Nguyễn Cửu Kiều có hai trai là Ứng và Dực. Ứng là người dũng cảm, khéo bắn súng lớn. Ban đầu làm Cai cơ, quản cơ Tả Trung kiên, làm dần đến Trấn thủ doanh Bố Chính. Khi tại chức, làm chính sự, chuộng hòa, rất có thành tích, quan và dân đều khen ngợi. Rồi được trao chức Chưởng cơ, lĩnh việc trấn như cũ. Dần thăng đến Chưởng doanh, Thống suất đạo Lưu Đồn.

Vì con của Nguyễn Cửu Ứng là Khâm chơi nghịch phạm pháp, nên Nguyễn Cửu Ứng phải tội lây, bị miễn chức. Sau đó được khởi phục lại làm Trấn thủ Quảng Bình, mộ lính lập cơ Trung Kiên, thuyền Thắng Trụ.

Năm 1705, mùa thu, Nguyễn Cửu Ứng chết, thọ 72 tuổi, được tặng Khiêm cung công thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tả quân Đô đốc Chưởng phủ sự, Trấn Quận công. Dân xã Trung Kiên, tỉnh Quảng Bình, nhớ ơn lập đền thờ.


Bức hoành phi ghi NHẤT MÔN TRUNG NGHĨA - Tự Đức nhị niên ngự đề (1849).

“Vua Tự Đức cho rằng họ Nguyễn Cửu thời Đinh thì có ngài Nguyễn Bặc phò nhà Đinh, thời chúa Nguyễn thì có ngài Nguyễn Cửu Kiều phò Nguyễn diệt Trịnh. Nên vua ban hoành phi này cho dòng họ Nguyễn Cửu - với ý nghĩa đây là dòng họ trung trinh gia truyền hiếu nghĩa qua nhiều đời”. Sự tích trên được lưu truyền qua các thế hệ họ Nguyễn Cửu. Hoành phi này có từ lúc ông Nguyễn Cửu Trường (Tiến sĩ năm Mậu Tuất) lúc ấy đương làm quan hầu cận nhà vua trong triều.

4. Dòng họ này ngoài Cửu Ứng, còn nhiều võ tướng của các chúa Nguyễn như Nguyễn Cửu Thế (con thứ ba của Cửu Ứng), được lấy công chúa Ngọc Phượng, lúc mất được truy tặng Tán trị công thần, Đặc tiến Khai phủ phụ quốc Thượng tướng quân, Trấn thủ, Hữu quân Đô thống phủ Đô đốc Thiếu phó Trung quốc công, cho lập đền thờ ở xã Vân Dương (Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế).

Cửu Thế có 3 con trai là Quý, Thông và Pháp. Quý làm đến Ngoại hữu Chưởng doanh, tặng phong Tá lý công thần, Tả quân Đô đốc. Thông trước làm Cai đội, giữ quân cấm vệ, dần thăng đến Nội tả Chưởng cơ, lại lên Chưởng doanh, được tặng tước Trấn phủ Kính quận công.

Ngoài ra hậu duệ họ Nguyễn Cửu còn có Cửu Quán lấy công chúa, làm đến Phò mã Cai cơ, Cửu Thống cũng được lấy công chúa, làm tướng đến chức Tiết chế, Chưởng doanh quận công, hoặc nhiều võ tướng danh tiếng khác như Cửu Điển làm đến Hữu quân Phó Tiết chế, Cửu Vân, Cửu Chiêm, Cửu Đàm, Cửu Dật...

Lê Tiên Long
(Lao động 5/2016)

Những dấu mốc đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam

Đơn vị Hải quân đầu tiên được hình thành trước ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai máy bay của vua Bảo Đại là phương tiện đầu tiên của Không quân Việt Nam.

Nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944), VnExpress điểm lại một số dấu mốc đầu tiên của quân đội có thể nhiều người chưa biết.

Đơn vị hải quân Việt Nam đầu tiên

Ít người biết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, quân đội Việt Nam đã có một bộ phận hải quân nhỏ và lập được những chiến công đầu tiên. Theo cuốn Lịch sử Hải quân Việt Nam, cuối tháng 8/1945, tại Hải Phòng, Bộ Tư lệnh khu Duyên hải đã tổ chức Ủy ban Hải quân Việt Nam với quân số gần 200, trong đó tiêu biểu là Đại đội Ký Con, phương tiện là một số tàu nhỏ và 3 canô thu được của Pháp. Các tàu nhỏ được đổi tên thành Bạch Đằng, Giao Chỉ.

Với cách đánh du kích, Đại đội Ký Con đã lập được một số chiến công ở cửa biển Hải Phòng và vùng ven biển Đông Bắc. Trận đánh đầu tiên được lịch sử hải quân Việt Nam ghi lại là đánh tàu Crayssac tại vùng biển Hòn Gai đầu tháng 9/1945.

Theo lệnh Khu trưởng chiến khu Duyên hải Nguyễn Bình (sau được phong là Trung tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam), đại đội Ký Con dùng hai tàu Bạch Đằng, Giao Chỉ và một canô, với một trung đội bộ đội phối hợp với các thuyền đánh cá của nhân dân tiến ra vây bắt tàu địch. Trước sức ép của quân dân, tàu Crayssac phải đầu hàng, chỉ huy và các thủy thủ người Pháp bị bắt làm tù binh, nhiều binh sĩ người Việt tình nguyện tham gia cách mạng.

Tàu Crayssac được trang bị một khẩu pháo 37 mm, 2 trọng liên, 2 đại liên, một bazoka, 2 súng carbin cùng một số súng trường. Ngày 8/9/1945, Khu trưởng Nguyễn Bình đã đến thăm con tàu chiến lợi phẩm, ra lệnh gỡ biển tên tàu, gắn chữ Ký Con bằng đồng vào mũi tàu, biên chế con tàu vào lực lượng vũ trang chiến khu Duyên hải (sau là chiến khu 3).

Sau đó, quân Pháp đưa tàu Audacieuse đến vùng biển Hòn Gai để tìm kiếm tàu Crayssac. Quân khu Duyên hải dùng ngay tàu Ký Con để đánh đuổi và chiếm được tàu Audacieuse, bắt 8 sĩ quan và thủy thủ, thu một đại liên, một bazoka và một số vũ khí trang bị khác. Đến ngày 12/9/1945, hai tàu Ký Con, Audacieuse cùng một số canô được tổ chức thành một thủy đội thuộc Ủy ban Hải quân Việt Nam, làm nhiệm vụ tuần tiễu vùng ven biển từ Hòn Gai đến Hải Phòng.

Đơn vị pháo binh đầu tiên

Từ những khẩu pháo thu của quân đội Pháp, đơn vị pháo binh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Ngày 29/6/1946, tại sân Vệ Quốc đoàn Trung ương (trại 40 Hàng Bài), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Hoàng Văn Thái đọc Quyết định thành lập Đoàn pháo binh Thủ đô gồm 3 trung đội: Pháo đài Láng, Pháo đài Xuân Tảo và Pháo đài Xuân Canh (nay thuộc huyện Đông Anh). Đây chính là nền móng để xây dựng lực lượng pháo binh Việt Nam sau này.

Đến tháng 9/1946, Tổng Tham mưu trưởng quyết định thành lập thêm Trung đội Pháo đài Thổ Khối (huyện Gia Lâm), nằm bên tả ngạn sông Hồng, đồng thời thành lập Đại đội Pháo binh Thủ đô, thống nhất chỉ huy 4 trung đội pháo đài. 29/6/1946 trở thành ngày truyền thống của Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Khẩu pháo 75 ly được lưu giữ tại di tích lịch sử Pháo đài Láng. Ảnh: Võ Hải.
Theo Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, các pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh do quân Pháp xây dựng vào năm 1940, đặt các khẩu pháo phòng không 75 ly nhằm phòng thủ cho thành phố Hà Nội trước nguy cơ bị không quân Nhật tấn công.

Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, các pháo đài này bị quân Nhật chiếm. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, tất cả cơ sở quân sự ở miền Bắc được bàn giao cho quân đội Quốc dân Đảng của Tưởng Giới  Thạch. Khi quân Tưởng rút, quân và dân Việt Nam tiếp nhận pháo đài. Do thiếu pháo thủ, một số thanh niên làng Láng được gọi tăng cường, nhanh chóng làm chủ kỹ thuật.

Pháo đài Láng chính là nơi nổ phát súng đầu tiên phát hiệu lệnh toàn quốc kháng chiến lúc 20h03 ngày 19/12/1946. Ngay sau đó, các pháo đài Xuân Canh, Xuân Tảo cũng lập tức nổ súng, dùng các khẩu pháo phòng không để đổi cách bắn, rót đạn xuống các doanh trại của quân Pháp đóng trong thành cổ Hà Nội.

Sau đó 2 ngày, ngày 21/12/1946, Pháo đài Láng tiếp tục lập chiến công bằng việc bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên của quân Pháp trong cuộc kháng chiến kéo dài tới 9 năm sau đó. Các pháo thủ pháo đài Láng đã bắn máy bay bằng cách ngắm bắn trực tiếp do không có máy ngắm. Với thành tích này, Trung đội pháo binh Pháo đài Láng đã được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp gửi thư khen ngợi.

Đến tháng 1/1947, sau khi thành công trong việc kìm chân quân đội Pháp trong thành phố Hà Nội suốt hai tháng, các đơn vị pháo binh ở pháo đài Láng được lệnh rút lên chiến khu. Do các khẩu pháo nặng nề không thể di chuyển được, các pháo thủ đã tháo quy lát của pháo mang đi chôn giấu.

Hiện nay, một khẩu pháo 75 ly còn được lưu giữ tại di tích lịch sử Pháo đài Láng, tại con phố cùng tên ở phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội.

Máy bay đầu tiên

Dù mãi đến năm 1955, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mới quyết định thành lập Ban Nghiên cứu sân bay, tiền thân của lực lượng không quân hiện nay, tuy nhiên từ ngay sau cách mạng tháng 8, quân đội Việt Nam đã có những chiếc máy bay đầu tiên.

Theo cuốn Lịch sử không quân nhân dân Việt Nam, đó là hai máy bay riêng của vua Bảo Đại, sau khi thoái vị đã hiến cho chính phủ lâm thời. Cả hai đều là máy bay 2 chỗ ngồi, gồm một chiếc Tiger Moth (2 tầng cánh, do Anh sản xuất) và Morane Saulnier (một tầng cánh, do Pháp sản xuất).

Hai máy bay được tháo cánh và bí mật chở bằng tàu hỏa từ Huế ra Bắc rồi chuyển về cất ở sân bay Tông (Sơn Tây) vào đầu năm 1946. Khi đó sân bay Bạch Mai và Gia Lâm đang bị quân đội Tưởng Giới Thạch chiếm giữ.

Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay tiếp tục được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (Tuyên Quang). Trong quá trình vận chuyển, bị máy bay Pháp phát hiện và bắn phá, cả hai máy bay bị hư hỏng ít nhiều.

Học viên Lớp hàng không đầu tiên của quân đội Việt Nam bên chiếc máy bay Morane của vua Bảo Đại. Ảnh tư liệu.
Ngày 9/3/1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam, đã ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Quốc phòng, sau chuyển sang Bộ Tổng Tham mưu, do ông Hà Đổng, làm Trưởng ban, với nhân sự gồm một số kỹ thuật viên và phi công là hàng binh người châu Âu.

Sau quá trình chuẩn bị đường băng là bãi trồng ngô dài 400 m, rộng 25 m tại Soi Đúng, tả ngạn sông Gâm, cách thị trấn Chiêm Hóa, Tuyên Quang 10 km về phía nam, máy bay được lệnh chuẩn bị bay thử. Xăng dầu cho máy bay được chuyên chở bằng thùng phuy từ Cao Bằng về. Ban Nghiên cứu đã quyết định chọn chiếc Tiger Moth để bay.

Chiều 15/8/1949, phi công Nguyễn Đức Việt, hàng binh gốc Đức, tên thật là Verner Schulze, đã cùng ông Nguyễn Văn Đống, Trưởng ban Cơ khí cất cánh bay lần đầu tiên. Máy bay chỉ bay được vài trăm mét, sau đó đâm xuống sông Gâm, ông Đống bị thương nhẹ. Chiếc máy bay sau đó được cán bộ Ban Nghiên cứu cùng bà con lội ra sông, tháo từng bộ phận, đem về cất giấu.

Đây là mốc lịch sử quan trọng của Không quân nhân dân Việt Nam, lần đầu tiên máy bay mang cờ đỏ sao vàng bay trên vùng trời Tổ quốc.

Ông Verner Schulze, sinh năm 1920 nguyên là phi công trong quân đội Đức bị quân Pháp bắt làm tù binh và bắt buộc tham gia đội quân lê dương tại Việt Nam. Được sự móc nối của cán bộ Việt Minh, ông bỏ hàng ngũ quân Pháp tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông trở về Đức sinh sống.

Lê Tiên Long
(VnExpress)

Chuyến “phượt” trên lưng ngựa từ Hà Nội tới Đà Nẵng của một Tổng thống Pháp

Nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới đã tới Việt Nam để khám phá vẻ đẹp của đất nước chúng ta. Nhưng ít người biết, một chính trị gia từng làm tới chức Tổng thống Cộng hòa Pháp, đã có chuyến đi dã ngoại suốt từ Hà Nội vào Đà Nẵng trên ngựa trong một tuần!

Người đó là ông Paul Doumer (1857-1932), Toàn quyền Đông Dương giai đoạn 1897-1902, sau là Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Ông tiến hành chuyến đi nói trên, mà bây giờ giới trẻ hay gọi là “đi phượt”, tức là đi tự túc, vì mục đích khám phá, không cần tiện nghi, khi mới sang Đông Dương nhậm chức chưa lâu.
Ông Doumer từng là Tổng thống Pháp.
Ông Doumer là chính trị gia thuộc nhóm cấp tiến tại Paris. Xuất thân trong gia đình lao động, ông tốt nghiệp cử nhân Toán học, sau đó lấy thêm bằng Luật rồi trở thành chuyên gia tài chính. Ông cũng là nhà báo. Năm 1895, ông là Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ thủ tướng Léon Bourgeois.

Ông là người đưa ra đề nghị đánh thuế lợi tức để chính phủ có thêm tiền, đụng chạm đến quyền lợi của giới tư bản, nên các đại diện của giới tư bản trong quốc hội bác đề nghị, nội các sụp đổ. Sẵn dịp Toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau chết vì bệnh kiết lị, chính phủ đề xuất ông sang thay thế, ông nhận lời. Lúc đó, Doumer mới 38 tuổi, để lại 5 người con đang học tập tại Paris. Sau này trong chiến tranh thế giới thứ nhất, 4 người con của ông đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ nước Pháp.

“Ngựa sải thẳng đét”

Câu chuyện về chuyến đi suốt từ Bắc vào Trung của viên Toàn quyền được ông ghi lại trong cuốn hồi ký L’Indochine Française (Souvenirs) kể lại đoạn đường 800 km mà ông cùng người tùy tùng, thiếu tá Nicolas, trải qua (từ trang 232 đến 236). (1)

Thực ra không phải ông đi “phượt” vì thú du sơn ngoạn thủy. Ông đi vì công việc. Là người mê mải với các công trình khai thác bản xứ, là ông muốn tự mình xem xét địa thế để xây dựng con đường xe lửa liên Đông Dương.

“Vào mùa khô ráo trên đất Bắc (Tonkin), tức tháng Giêng, tháng Hai dương lịch, có một lần tôi thử cưỡi ngựa chạy từ Hà Nội xuống đến Đà Nẵng, đường dài độ tám trăm cây số”, ông viết. “Ấy là tôi muốn tận mắt xem xét lấy phong cảnh và địa hình địa thế những nơi nào thuận tiện để đặt con đường sắt, phóng tàu hỏa xuyên Đông Dương, trước khi các kỹ sư chuyên môn dâng đồ án thiết kế cho tôi sau này. Tôi không cần nghi lễ đón tiếp long trọng, không cần cờ xí, kèn trống và tiệc tùng linh đình. Hành lý của viên võ quan hộ vệ của tôi, chỉ thu gọn lại trong một cái túi da (serviette) treo bên hông ngựa là đủ”.

Ông Doumer chỉ cần các quan Nam triều sắp đặt sao cho mỗi dịch trạm có ngựa khỏe thay cho ngựa mỏi, vài tên quân lính biết săn sóc ngựa và rành rẽ đường sá để chỉ dẫn nếu cần.

Chắc rằng từ sơ khởi, các nhà cai trị Pháp đã nhắm hướng tuyến xe lửa vòng từ Phủ Lý xuống Nam Định, khi ông Doumer kể rằng: “Cho ngựa phi nước đại suốt Nam Định qua Ninh Bình, trải qua các tỉnh lị từ Thanh Hóa đến Nghệ An, có dừng chân vài chỗ để xem xét những vị trí nên đặt đường xe lửa sau này. Nhờ khí trời mát mẻ, phong cảnh quang đãng, ngựa sải thẳng đét, chạy được suốt ngày đến cả trăm cây số mà không biết mệt”.

Ông mô tả khá kỹ lưỡng khí hậu ở các vùng đất đi qua: “Qua đến địa phận Hà Tĩnh thì trời đổi khác. Hết nắng tới mưa dạt dào. Đã có mươi phen, chúng tôi phải dùng đến chiếc áo mưa che bằng cao su, nhưng hễ tạnh đôi chút thỉ phải cởi, vì áo nặng trĩu trên vai khó chịu. Mặc dù vậy, nhờ đất cứng, ngựa chạy không lún móng, nên vẫn phi được nước đại như thường”.

Ướt như chuột lội

Qua những dòng nhật ký của Doumer, chúng ta cũng mới hình dung phong cảnh đèo Ngang hồi cuối thế kỷ 19: “Đến dãy Hoành Sơn (Portes d’Annam) tức cửa ải để vào mấy tỉnh miền Trung, chúng tôi phải xuống ngựa đi bộ, leo triền núi dốc như thang đứng, tay nắm chặt sợi cương dắt ngựa, chân bước gập ghềnh, trời thì mưa tầm tã, rồi lại phải nương tay dắt ngựa xuống dốc, rồi gặp cả một vùng cát lún, nhưng cũng không có gì là khổ cực cho lắm.

Tuy nhiên, qua khỏi dãy Hoành Sơn thì khí hậu không còn như khí hậu xứ Bắc. Mưa ôi là mưa, nước ôi là nước. Nước từ trên trời rơi xuống, nước từ trong không khí thấm vào, nước từ dưới đất xông lên. Mưa như xối, mưa không dứt hột, mưa đầy đồng, đất mềm lún, nước chan hòa, ngựa không thấy đường... Khe rạch đều ngập.

Chưa đầy một giờ đi dưới cơn mưa trút nước này, những áo caosu của chúng tôi, tuy là thứ áo chắc chắn, chế tạo từ bên Pháp, đều thấm nước trở nên vô dụng. Nước mưa thấm vào vai, ướt dần vào, áo nỉ, áo lót đều ướt rượt, và từng giọt từng giọt, nước mưa chảy vào giày ống, biến nó thành “ống chứa nước”, hết còn là giày!

Tội nghiệp cho đôi ngựa, thấy nặng, chở thêm, rồi thấy thêm nặng vì đất thêm mềm, chân ngựa chạy lún, đất trở nên sình lầy, giữ chân ngựa lại”.

Đến thị xã Đồng Hới, trời vẫn mưa không ngớt, hai thầy trò nghỉ ngơi một giờ tại nha môn dinh Công sứ Quảng Bình, có cơm no, có lửa hơ sau lưng làm quần áo bớt ướt, rồi lại từ giã lên đường. Các khe suối đều tràn ngập, ngựa lội nước, ngập tới ức ngựa rồi tới bộ yên, khiến hai người “ướt như chuột lội” không còn chỗ nào có thể ướt thêm nữa. Sự mệt mỏi thể hiện qua từng dòng nhật ký:

“Chúng tôi cũng đã đi đến nước không còn thiết tha đến sự gì nữa, cũng không cần kéo chân lên, khi ngựa lội qua chỗ cạn cũng không cần tránh lúc ngựa làm nước văng tung tóe. Đến lúc hoàng hôn, chúng tôi đến một ngôi chùa dự định là nơi tá túc đêm này và cũng là nơi thay hai ngựa. Nhưng chỉ trơ trọi hai giường chõng bằng tre, vạt giường cũng bằng tre, chùa thì vách phên không có, trống trơn một nóc. Trời lạnh ở mức 8-10 độ, có thể ngủ lại trong bộ quần áo ướt rượt này không?”.

Vậy là hai thầy trò chỉ dừng chân nghỉ, rồi tiếp tục lên đường, vì tính toán khi ngựa chạy, máu huyết trong người cũng vận động, nên tuy dầm mưa, vẫn ấm người hơn.

Thầy trò ông Doumer đi suốt đêm không ngừng, tin cậy người lính An Nam đưa đường nói rằng biết đường rành rẽ. Hai ngựa cứ phi nước đại theo chân người lính trong màn đêm huyền bí, cho tới khi tới một nơi nghỉ chân mà theo dự kiến sẽ nghỉ vào sáng hôm sau. May là ngựa mới để thay đã có sẵn. Một chuyện đáng chú ý là khi người lính dẫn đường loay hoay chọn lối tại một ngã ba, nhiều dân làng (được báo trước là có quan lớn đi qua) đã đốt đuốc đưa đường dẫn quan Toàn quyền đi đến chốn. Khi tới trạm nghỉ, ông Doumer tặng họ mấy đồng bạc, họ đều lấy làm ngạc nhiên khi ông quan Tây to nhất xứ Đông Dương không những chịu dầm mưa dãi nắng mà còn đối xử tử tế với người phục dịch.

Đến một bến sông, cây cầu bị nước dâng ngập, trời tối không nhìn rõ, phải nhờ người vào làng tìm thuyền, ông tìm đến một túp lều sẵn có đống lửa.

Những dòng nhật ký cho thấy ông Doumer đúng kiểu là người rất thích hợp với các chuyến đi “bụi”, không nề hà chuyện thiếu tiện nghi:

“Tôi kéo lại gần nửa một cái ghế băng làm bằng cây tạp, bề ngang độ hai gang tay, rồi nằm trên băng ghế, quay mặt vào lửa. Ôi, nó êm khoái làm sao. Thật là sung sướng, hạnh phúc tràn trề... Tôi trở mình trên băng, cái băng vừa chật hẹp, tôi cố giữ thăng bằng rồi ngủ vùi lúc nào không hay.

Tôi dám khuyên các vị khách lữ hành, một khi đã chán chê với cảnh cực lạc nhung lụa của các nước văn minh, xin hãy nếm thử cảnh đìu hiu cô quạnh như tôi hôm nay vậy, họa may mới biết thú”.

Chiều hôm đó, thầy trò Doumer đến Huế, đồ hành lý chuyển theo tàu thủy đã đến nơi trước. Sau bữa tiệc chiêu đãi của Khâm sứ Trung kỳ, sáng hôm sau, thầy trò lại lên ngựa, chạy miết đến ba giờ chiều, hết quãng đường dài 110km đã sửa sang tốt đẹp, nối liền thành phố Huế, vượt đèo Hải Vân qua thành phố Đà Nẵng.

Như vậy, quãng đường 800km từ Hà Nội vào Đà Nẵng, ông Doumer cưỡi ngựa đi hết đúng một tuần.

Một người liêm khiết và không vụ lợi

Tuy là người thay mặt nước Pháp cai trị cả 3 nước Đông Dương, nhưng ông là người không thích lễ nghi quan cách. Như lần triều đình Huế tiễn ông chính thức từ kinh đô vào Đà Nẵng để lên tàu đi công cán, cử phụ chánh đại thần Nguyễn Thân (ông viết “nhân vật đứng thứ 3 trong triều đình”) cùng đoàn tùy tùng võng lọng kèn nhạc hộ giá, với nghi lễ như của nhà vua tuần du, thì ông cùng sĩ quan tùy tùng quất ngựa chạy thẳng vào Đà Nẵng trước, để đoàn quân triều đình dễu dện khiêng võng che tàn cho viên lính thủy đánh giày phục vụ Toàn quyền tên là Picard!

Paul Doumer là người để lại rất nhiều công trình có giá trị về nhiều mặt cho Việt Nam, như Viện Viễn đông Bác cổ, lập Trường Cao đẳng ở Hà Nội để học sinh không còn phải qua Trung Quốc học. Năm 1901, ông đã đến Đà Lạt và quyết định chọn nơi đây thành đô thị nghỉ mát cho người Pháp tại Đông Dương và tài trợ cho bác sĩ Yersin xúc tiến việc thành lập thành phố.

Ngoài ra ông còn là người rất chú trọng công tác xây dựng các công trình hạ tầng. Cùng với đường sắt xuyên Việt, ông còn để lại ba cây cầu ở ba miền là cầu Long Biên (sau được gọi tên là cầu Doumer), cầu Tràng Tiền, và cầu Bình Lợi cho xe lửa chạy ở Sài Gòn.

Ngoài ra, nhiều cây cầu khác cũng xuất hiện trong thời kỳ trị nhậm của ông như ở Hải Phòng, Hải Dương, Việt Trì, Lào Cai, cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa. Ông cũng là người chủ trương mở mang cảng Hải Phòng và xây dựng tuyến đường sắt lên Vân Nam để khai thác tài nguyên. Báo chí Pháp đã mỉa mai gọi ông là “người theo chủ nghĩa đường sắt”.

Ở miền Nam, năm 1901, ông còn cho khởi công con đường đá từ Sài Gòn đi Tây Ninh để thông thương với Campuchia. Tuy nhiên, để có tiền phục vụ các công trình này, ông cũng cho tăng các thứ thuế, khiến dân chúng rất khổ cực.

Quan lại triều đình Huế coi ông Doumer là người rất hách. Sách sử cho biết các quan trong triều nghĩ mãi mới ra cách phiên âm tên ông sang âm Hán Việt là “Đô Mỹ đại nhân”. Các sử gia Pháp cũng cho biết là người rất cố chấp, cả đời ông đối nghịch với Paul Blanchy, Hội trưởng Hội đồng quản hạt Nam Kỳ. Ông Blanchy suốt đời bênh vực cho quyền lợi của xứ Nam Kỳ, còn Doumer thì đem hết quyền hành để đem lợi ích cho xứ Bắc. Khi Blanchy chết, ông Doumer tuy đang ở Sài Gòn nhưng không đến dự đám tang, cũng không cử người thay mặt đến đưa tang!

Henri Lamagat, tác giả cuốn Souvernirs d’un vieux Journalistre Indochinois, có nhận xét ông Doumer là “một nhân vật vĩ đại của nước Pháp và của thuộc địa Pháp, liêm khiết và không chút vụ lợi”. Ông Lamagat cho rằng ông Doumer chỉ có một lỗi duy nhất là chỉ chú tâm vun vén cho đất Bắc mà không bỏ phần cho đất Nam.

Từ năm 1902, sau khi về nước, ông lại sôi nổi tham gia hoạt động chính trị, cùng với Giám quốc Raymond Poincare và Thủ tướng Clémenceau xây dựng lại nước Pháp sau thế chiến thứ nhất. Từ chức Chủ tịch Thượng viện, ông được bầu làm Tổng thống Pháp năm 1931, là tổng thống thứ 14 của Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên, ngày 6.5.1932, Paul Doumer bị một gã tâm thần người Nga tên là Gorguluff bắn, và qua đời vào ngày hôm sau, lúc đó ông 75 tuổi.

Là con của một công nhân đường sắt, những công trình đường sắt mà ông Doumer khởi tạo trên đất Việt Nam hơn 100 năm qua, đến nay vẫn còn có giá trị lớn trong nền kinh tế nước ta!

(1). Nhà xuất bản Vuibert & Nony, Paris in năm 1903. Đã được học giả Vương Hồng Sển dịch lại một số phần đăng trong cuốn di cảo “Dỡ mắm”, NXB Trẻ, 2014.
Năm 2015, tác phẩm đã được Alphabook dịch và xuất bản tại Việt Nam.


Lê Tiên Long

Lao động

Thứ Tư, 22 tháng 3, 2017

Quan ngày xưa nghỉ hưu thế nào

Quan võ đến 70 tuổi mới về hưu, còn quan văn 65 tuổi về hưu, là quy định từ thời Lê trung hưng. Sau đó, các quan đều nghỉ hưu khi đủ 65 tuổi, quy định này áp dụng cho đến triều Nguyễn.

Theo Lịch triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú, phần Quan chức chí, thì từ thời Trần đã có lệ cho các quan về nghỉ hưu (trí sĩ). Sử sách có ghi Nguyễn Tiến Ngô đã về trí sĩ rồi lại ra làm quan.

Thời Lê Thánh Tông, nhà vua có chỉ truyền cho các quan văn võ tại chức, đến 65 tuổi, muốn về hưu, thì viết đơn gửi bộ Lại, kê tâu để thi hành.

Từ thời Lê trung hưng (tính từ Lê Thế Tông), thì lệ các quan văn võ đến 70 tuổi mới cho về hưu. Điều này cho thấy tuổi quan của quan lại thời Lê là rất cao. Theo quy định, viên quan nào đến 69 tuổi thì cuối năm làm tờ khải viện lệ bày xin, giao cho các quan bàn, trình lên Chúa Trịnh xem xét, để có thể thăng chức tước khi về hưu.
Quan lại triều Nguyễn. Ảnh minh họa.
Một số trường hợp cụ thể có ghi lại về việc các quan trí sĩ đầu thời Lê trung hưng, như Thái phó Nguyễn Thực, Thiếu phó Nguyễn Minh Triết đều về hưu ở tuổi 80. Bồi tụng Thượng thư bộ Binh Nguyễn Khải về hưu khi đã 78 tuổi.

Thời Lê Dụ Tông, năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719), ra quy định là quan võ, thì nội giám từ đồng tri giám sự trở lên, 70 tuổi được cho về hưu, từ lục phẩm trở xuống thì cho cáo lão. Định lệ cho quan văn cũng tương tự.

Thời Lê Ý Tông, năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), quan văn là Hàn lâm thừa chỉ Trần Ân Triêm 65 tuổi xin về hưu. Chúa Trinh vương Trịnh Giang chuẩn y cho. Từ đấy, các quan văn được về hưu từ 65 tuổi.

Đến đời Lê Hiển Tông, các quan nhiều người muốn xin về hưu sớm. Cả hai ban văn võ đều dâng tờ khải xin được về hưu ở tuổi 60. Chúa Minh vương Trịnh Doanh xem tờ khải không đồng ý, quyết định các quan phải đến 64 tuổi mới được viện lệ xin nghỉ.

Đến cuối đời Hiển Tông, các quan văn ngoài 60 tuổi nhiều người chán cảnh làm quan. Khi đó, chúa Tĩnh Vương Trịnh Sâm ra lệnh tuân theo lệ cũ, các quan 70 tuổi mới được nghỉ hưu.

Sang đến chúa Đoan Nam vương Trịnh Khải, Tể tướng Bùi Huy Bích dâng tờ khải xin lại theo lệ gần đấy, cho các quan 65 tuổi được nghỉ việc để tỏ ra ưu đãi tuổi già. Chúa nghe theo.

Phan Huy Chú có bình luận, đầu thời Lê Trung Hưng, việc về hưu chưa được coi là vẻ vang, cho nên có lẽ vì vậy mà các quan cố gắng làm việc dù tuổi đã già. Theo truyền thống thời Lê, các quan đã về hưu mà được gọi ra làm việc lại (khởi phục) thì coi như là có đặc ân.

Lệ thời ấy, là ngày một quan về hưu, thì các quan trong triều đình đều có thơ mừng, lần lượt viết vào bức lụa, bày tiệc tiễn đưa. Từ khi Yên quận Phạm Công Trứ (1600-1675) 70 tuổi về hưu, có thơ lưu giản với các quan đồng triều, có đến 50 người ở các phủ, bộ, tự, khoa, đạo, viện họa thơ viết lên trướng lụa, uống rượu tiễn trên giang đình, từ đó về sau thành lệ.

Từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái năm đầu (1720) về sau, khi các quan đủ hạn tuổi về hưu, vua chúa ban cho sắc thư, các quan tổ chức khen mừng thành tích, tiễn đưa xe ngựa nhộn nhịp, được cho là “làm câu chuyện hay trong buổi thái bình”.

Sang đến triều Nguyễn, vẫn giữ quy định các quan đến 65 tuổi thì về hưu. Tuy nhiên, với các chức quan to, có lẽ việc áp dụng cũng không chặt chẽ mà tùy thuộc vào hoàn cảnh.

Nguyễn Công Trứ, vừa là quan văn, vừa là tướng võ, đến năm 1847, niên hiệu Tự Đức năm thứ nhất, ông 69 tuổi mới nghỉ hưu. Đông các Đại học sĩ Cao Xuân Dục, Tổng tài quốc sử quán, năm 1913, đến 70 tuổi mới về hưu. Năm 1933, khi vua Bảo Đại quyết định cải tổ bộ máy triều đình, cho cả 5 thượng thư về nghỉ hưu thì Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài đã 70 tuổi.

Tuy nhiên lịch sử vẫn ghi nhận những trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Như cụ Đoàn Tử Quang, người huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, năm 1900 thi đỗ cử nhân khi đã 82 tuổi, vẫn được đặc cách bổ dụng làm Huấn đạo huyện Hương Sơn, rồi huấn đạo huyện Can Lộc. Đến năm 85 tuổi, cụ xin về hưu để phụng dưỡng mẹ già.

Còn Khâm sai đại thần Trần Đình Túc, được cho nghỉ hưu sau khi thương lượng với Tướng Pháp Henri Rivière sau trận đánh thành Hà Nội lần thứ 2 (1882), khi ông 64 tuổi. Đến khi vua Tự Đức mất, vua Hiệp Hòa nối ngôi, xảy ra sự kiện quân Pháp chiếm cửa Thuận An, triều đình Huế lại cử Trần Đình Túc ra làm Khâm sai toàn quyền cùng với Nguyễn Trọng Hợp đi hòa nghị, để ký Hòa ước Quý Mùi (còn gọi là Hòa ước Harmand - 1883).

Trong khi đó, hai vị quan lớn của triều Nguyễn có sự cộng tác đắc lực với người Pháp là Nguyễn Thân (Thượng thư Bộ Lại) và Hoàng Cao Khải (Thượng thư Bộ Binh), sau khi tranh chấp quyền lực với nhau, thì cùng phải về hưu năm 1903, khi ông Thân mới 58 tuổi, ông Khải mới 53 tuổi.

Lê Tiên Long

VnExpress

Quan tổng đốc thanh liêm làm trộm cướp khiếp sợ

Kẻ gian gọi tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu là "Phật sống", bảo nhau lánh khỏi địa bàn ông cai quản.

Lịch sử Việt Nam ghi chép nhiều gương quan thanh liêm được nhân dân kính trọng, nhưng tài đức của quan cai trị khiến kẻ cướp bảo nhau lánh khỏi địa hạt như Tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu thời nhà Nguyễn là khá hiếm hoi.


Nguyễn Văn Hiếu sinh năm 1766, quê ở Định Tường, Gia Định (nay là huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang), tuy là con của quan Cẩm y Chưởng vệ nhưng nhà rất nghèo. Thuở thiếu thời, ông từng phải đi cắt cỏ thuê kiếm sống.

Năm Ất Tị (1785), ông theo tướng Võ Tánh để phò chúa Nguyễn Phúc Ánh, từ chức Cai cơ hỗ giá ông dần thăng tiến lên vị trí Hữu chi Phó trưởng chi, rồi Chánh trưởng chi. Sau khi vua Gia Long lên ngôi, ông được cử làm trấn thủ Bình Định, sau điều ra làm trấn thủ Sơn Nam Hạ (Nam Định ngày nay).

Đức thanh liêm của Nguyễn Văn Hiếu được sách Đại Nam liệt truyện chính biên (sơ tập, quyển 16) ghi lại như sau: Nhà quan mà xơ xác, lương bổng năm nào chỉ đủ chi dùng cho năm đó, chẳng dư dả gì. Ông thường nghiêm cấm người nhà không được tự ý giao thiệp với người ngoài. Ngày lễ, tết, ai biếu gì cũng chối từ.

Khi vợ có đôi lúc nói về gia cảnh, ông nhắc nhở: "Phu nhân không còn nhớ thuở còn đi cắt cỏ ư ? Cái ăn cái mặc giờ đây gấp đôi gấp năm ngày xưa, vậy mà còn muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu ư?". Người vợ từ đấy không còn nói đến lợi lộc.

Nguyễn Văn Hiếu tuy là quan võ nhưng lại có phong độ của Nho gia nên sau các kỳ thi, các tân khoa đều tới yết kiến. Ông tiếp đãi ân cần và nhân đó căn dặn: Khổ công đèn sách mười năm mới có được ngày nay, xin mừng cho các bạn hiền. Ra làm quan cũng nên sống như thuở nghèo khổ, chớ nên xa xỉ. Nếu không, trước mắt là mình hạ nhục thân danh, sau là uổng công kén chọn nhân tài của triều đình.

Nguyễn Văn Hiếu được người dân kính trọng. Trong hạt có trộm cướp, ông trực tiếp đem quân đi bắt. Theo Đại Nam liệt truyện chính biên, bọn cướp răn bảo nhau rằng: Quan Trấn thủ nhân hòa, ấy là Phật sống, nên kính cẩn mà lánh đi.

Năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhà vua tuần du ở Bắc, nghe biết Nguyễn Văn Hiếu trị dân có tiếng tốt, liền triệu vào Thăng Long, cho thăng vượt cấp, thưởng một ống nhòm mạ vàng, một thanh gươm mạ vàng và một khẩu súng có nạm chữ vàng.

Năm Minh Mạng thứ tư (1823) ông nhận chức Trấn thủ Thanh Hoa. Một hôm, có viên Thổ ti đem lễ vật rất hậu đến xin yết kiến, ông khước từ và sai mang về. Người đầy tớ ở dưới bếp biết được liền lẻn cửa sau ra, dọa nạt viên Thổ ti và nói dối là ông sẽ lấy một nửa. Việc bị phát giác, ông giận lắm, sai đem chém đầu ngay, bạn đồng liêu can ngăn mấy cũng không nghe.

Chém xong, ông xin chịu tội với triều đình. Vua cho là ông tự tiện giết người, phạt giáng ba bậc nhưng vẫn cho lưu nhiệm chức cũ.

Năm 1826, ông cùng quan trấn Nghệ An dẫn quân đi dẹp cuộc nổi dậy ở Ninh Tạo. Nhờ công lao này, ông được thăng chức Thần sách Tả doanh, Phó Đô Thống chế, lãnh chức Trấn thủ Nghệ An.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), ông được bổ làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình). Thời kỳ đó, ông đã cho dời lỵ sở của phủ Hoài Đức ở phố Phủ Doãn về khu Dịch Vọng thuộc huyện Từ Liêm (nay là khu vực Học viện Báo chí tuyên truyền, thuộc quận Cầu Giấy).

Nguyễn Văn Hiếu mất năm 1835, thọ 69 tuổi. Năm Tự Đức thứ 5 (1851), ông được thờ ở miếu Trung hưng Công thần. Năm Tự Đức thứ 11 (1858), Nguyễn Văn Hiếu được thờ ở Hiền Lương Từ.

Lê Tiên Long
(VnExpress 2/1/2017)

Luật xưa: Dân ăn cắp vặt thì bị chặt đầu; quan lại lười nhác không bắt cướp cũng bị chém!

Ăn cắp ban ngày ở kinh đô: Chém đầu. Vua sai bán thóc kho cho dân khi đói kém mà bán cho riêng mình: Chém đầu. Pháp luật thời vua Minh Mạng nghiêm khắc đến mức đó.

Sau khi lên ngôi vua Gia Long đã cho biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ, đến năm 1815 thì ban hành. Đã có pháp luật rõ ràng, nghiêm khắc, các vua đầu triều Nguyễn cũng yêu cầu quần thần tuân thủ luật lệ rất chặt chẽ. Nhiều câu chuyện còn được sử sách ghi lại rất rõ ràng.

Cuối đời vua Gia Long, kinh thành nhiều lần có nạn trộm. Sách Đại Nam thực lục, tập 2, ghi lại các sự việc đời vua Minh Mạng cho biết, sau khi vua lên ngôi (1820), lập tức sắc rằng quân dân bắt được trộm thì hậu thưởng. 

Ngay sau đó có người bắt được kẻ cắp ngày. Vua bảo bầy tôi rằng: "Ăn cắp là tội nhẹ, nhưng giữa ban ngày mà ăn cắp ở chốn đại đô là rất khinh miệt pháp luật. Bọn vô lại khinh phạm hiến chương như thế, tha thì rốt cục cũng không chừa, tha cũng vô ích". Bèn sai chém để răn dân chúng.

Kinh thành Huế xưa.
Vua Minh Mạng rất quan tâm đến việc giữ bộ mặt của kinh thành, luôn muốn quét hết nạn trộm cướp. 

Việc này còn được ghi lại ở năm Minh Mạng thứ 6, khi kinh thành (lúc đó đã đổi tên từ dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên) vẫn xảy ra việc trộm cướp, vua đã có nghiêm chỉ, mà quan binh chưa bắt được hết, người bắt được lại để lâu không tra xét kết tội. Vua giận các quan cai trị kinh thành lười biếng, giao xuống bộ Hình bàn xử.

Thự Phủ doãn Thừa Thiên (chức quan to nhất kinh đô, tương đương thị trưởng, đô trưởng, chữ "thự" tức là đang ở mức chưa chính thức, như "quyền đô trưởng") là Bùi Tăng Huy bị giáng làm Lang trung Lại bộ, Phủ thừa (phó đô trưởng) Vũ Doãn Đạo giáng làm Lang trung Lễ bộ. 

Nhà vua còn điều Kí lục Quảng Nam là Ngô Phúc Hội về làm Phủ doãn Thừa Thiên. Thiêm sự Hình bộ là Nguyễn Công Trứ được điều sang làm Phủ thừa Thừa Thiên.

Cũng chuyện giữ gìn bộ mặt của kinh thành, năm Minh Mạng thứ 2, vua đi xem xét kinh thành, thấy có bệnh binh nằm ở bờ ao, hỏi ra là lính ở vệ Ban trực tiền. Vua liền sai Thái y viện điều trị, rồi phạt viên Quản vệ 40 roi, phạt Cai đội 80 roi. Sắc rằng từ nay người quản quân mà để quân binh bị khốn đói ở đường sá thì cứ lệ ấy mà trị.  

Nếu để chết thì tội nặng thêm. Phân chia trách nhiệm: Trong kinh thành thì thuộc quan Giám thành, ngoài quách thì thuộc dinh Quảng Đức, chiếu địa phận mà tuần xét, trên đường sá thấy có người ốm đau, nếu là quân lính thì giao cho cai quản, nếu là dân thì giao cho lý chánh hay thân nhân để điều dưỡng. Làm trái thì trách phạt theo số bệnh nhân nhiều hay ít, đã nằm lâu hay mau.

Quy định cụ thể như sau: Ngoài quách: Phát hiện mỗi người ốm nằm ngoài đường thì phạt một tháng lương, thêm một người phạt thêm 1 tháng, để nằm 3 ngày phạt lương 3 tháng, thêm 3 ngày nữa thì thêm 1 tháng lương. Mức phạt đến 1 năm lương là hết mức.

Minh Mạng năm thứ 3, Quảng Nam đói kém, vua sai quan ở kinh hội với quan ở trấn phát thóc kho ra bán. Các quan phát hiện Lý trưởng Đặng Văn Diên lĩnh thóc bán cho riêng minh, xin chém để răn mọi người.

Cũng chuyện bán thóc cho dân, mà bán không đều, bỏ sót, thì các quan phụ trách cũng bị cách, giáng chức. Năm đó, Quảng Trị cũng đói kém, Cai bạ tỉnh Quảng Trị Nguyễn Cứu Khánh và Thự Ký lục Bùi Phổ đến phát thóc bán cho dân, bán không đều, xã nhiều người bán thóc ít, xã ít người bán nhiều, lại có tới hơn 200 xã không được mua. 

Trộm cắp vặt thôi cũng bị nghiêm trị. Ảnh minh họa.
Tham tri bộ Hộ Nguyễn Công Tiệp hạch tâu. Vua Minh Mạng dụ rằng: "Việc bán thóc là để nhà nghèo đều được đội ơn. Nay bọn chúng tự ý thấp cao, đến nỗi 211 xã không được mua thóc", rồi sai bắt giam, cách chức.

Ngoài ra, xảy ra sự việc tù phạm ở trấn Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay) có 29 người phá ngục. Quân lính thuộc trấn đuổi bắt, có người bị thương và chết. 

Quan ở trấn tâu lên, vua dụ rằng: "Tù phạm nhiều như thế mà không đề phòng trước, đến nỗi chúng hành hung phá ngục, thì chức trách các người để đâu? Nếu không làm tội những hạng quan hèn kém này thì sao bày tỏ pháp luật với thiên hạ?".

Sau đó vua sai Cai đội Cẩm y là Hồ Văn Khuê và Chủ sự Hình bộ là Trương Văn Loan đến trấn Thanh Hoa, tuyên chỉ lột áo mũ từ Đốc trấn (tỉnh trưởng) Nguyễn Văn Ngoan, Hiệp trấn Hoàng Văn Diễn, Tham hiệp Hoàng Quốc Bảo, chờ xét xử.

Tội không tích cực đánh giặc cũng bị xử rất nặng. Trong năm này, ngoài biển Hà Tiên có giặc Chà Và vào cướp. Thủ ngự Phú Quốc sai các thứ đội trưởng là Ngô Văn Đức và Nguyễn Văn Sương đem binh đi tuần bắt. 

Đức lười nhác, thác bệnh cáo ốm, để Sương đi một mình, gặp giặc giao chiến chém được 3 đầu, lấy được một thuyền. Thành thần Gia Định tâu lên, Sương được phong chức Cai đội, còn Đức bị chém để nêu gương.

Nhờ từ nhà vua đến quân thần đều tôn trọng pháp luật, xét xử nghiêm minh, mà đời sau đánh giá những năm đầu triều Nguyễn là rất có kỷ cương. Nhà sử học Trần Trọng Kim đã nhận xét trong cuốn Việt Nam sử lược: "Đời vua Minh Mạng, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ".

Lê Tiên Long
(Trí thức trẻ)

Cách vua nhà Nguyễn xử nghiêm người thân vi phạm pháp luật

Buổi đầu triều Nguyễn, các vua nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật, luôn xử lý nghiêm việc khi các hoàng tử, công chúa vi phạm luật lệ. Chính vì thế, mà luật pháp trong cả nước nghiêm minh, quan dân nhìn gương các hoàng thân bị xử phạt mà tuân thủ.
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho tổ chức biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ, còn gọi là bộ luật Gia Long, hoàn thành năm 1815, được ban hành phổ biến trong toàn dân. Tuy nhiên, để toàn dân triệt để tuân thủ pháp luật, chính các đại thần, thậm chí các vương tôn công tử đều phải tuân theo pháp luật để làm gương.
Các sách Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, ghi chép các câu chuyện về vua, quan nhà Nguyễn, biên chép rất nhiều câu chuyện cụ thể về việc này.
1. Diên Khánh công là Nguyễn Phúc Tấn (còn có tên khác là Thản, là con thứ bảy của vua Gia Long) khi còn trẻ tính tình ngỗ nghịch, làm nhiều điều trái lễ, vua phải nhiều lần răn dạy.
Thời vua Minh Mạng, một lần Diên Khánh công lấy roi đánh cai đội thị trung là Lê Văn Hương. Tôn Thất Dịch đem việc tâu lên, vua Minh Mạng đang ngự ở điện, các tước công (hoàng tử) đều ở đấy. Vua quay nhìn Diên Khánh công, nhỏ nước mắt, trách rằng: “Hương kia cũng là phẩm quan triều đình. Có tội nên tâu lên, sao lại tự lấy roi đánh người ta? Vả lại phép của tiên đế lập ra là của chung của thiên hạ, có phải của riêng anh em ta đâu!”.
Vua Minh Mạng. Tranh minh họa.
Vua Minh Mạng lại nhắc chuyện xưa, việc vua Gia Long dạy con: “Em không thấy tiên đế đã thiết trách Định Viễn công (Hoàng tử Nguyễn Phúc Bính, con thứ sáu của vua Gia Long) à? Bấy giờ Định Viễn công có lỗi nhỏ, mà anh vì Bính hai ba lần xin tha, tiên đế vẫn không tha. Như thế là vì nghĩ rằng các hoàng thân sinh trưởng ở chỗ giàu sang, cậy mình được yêu thương đặc biệt, nên coi nhẹ mà phạm hiến chương, cho nên không thể không nghiêm ngặt để ngăn người sau. Nay anh lấy lòng tiên đế làm lòng mình mà yêu em, em cũng nên lấy lòng mình mà yêu anh, cùng nhau cẩn thận giữ phép sẵn, để giữ tiếng lành mãi không cùng. Chớ nên lại làm như thế nữa!”. Diên Khánh công nghe vậy cúi đầu tạ lỗi.
Vua vời các văn võ đại thần dụ rằng: “Việc Diên Khánh công đã làm có trái với phép, các khanh hãy vì trẫm tha thứ cho, từ nay về sau có kẻ nào bắt chước lỗi ấy thì không rộng tha nữa”.
2. Không chỉ các hoàng tử làm việc trái luật, mà thuộc hạ của nhiều vị cũng lợi dụng vị thế để mưu lợi cá nhân. Người thuộc hạ ở phủ Diên Khánh công tranh nhau thầu thuế cửa quan bến đò với người dân. Ký lục dinh Quảng Đức (tức kinh thành Huế) là Ngô Bá Nhân không cho. Diên Khánh công gọi Bá Nhân đến trách mắng. Bá Nhân đem việc tâu lên. Vua Minh Mạng nói: “Cửa quan bến đò là thuế của nước. Diên Khánh công sao lại được như vậy? Mà chức của ngươi là chức kinh doãn (cai trị kinh đô), không phải sợ kẻ quyền quý, sao lại nghe gọi là đến ngay mà chịu nhục?”. Bá Nhân cúi đầu chịu tội. Nhờ vua Minh Mạng công bằng và nghiêm khắc, mà người nhà Diên Khánh công không dám cậy thế làm càn.
Năm Minh Mạng thứ 13, Diên Khánh công lại nghe lời người buôn xảo quyệt là Diệp Liên Phong kêu xin lấy thuyền nước Thanh, mạo đổi làm thuyền miễn thuế để mưu toan khoan tha thuế. Việc phát ra, ông sợ hãi xin nhận tội. Vua cho là ông biết tự hối hận, đặc cách miễn cho. Sách Đại Nam liệt truyện, chính biên, tập 2 chép rằng, từ đấy ông quyết tâm rèn luyện, đốc chí học hỏi, đức nghiệp ngày càng tiến, vua Minh Mạng càng yêu dấu nhiều hơn.
Còn thuộc hạ trong phủ Thiệu Hóa công Nguyễn Phúc Chẩn là Nguyễn Đăng Quý trá xưng là thị vệ, đêm vào nhà dân bắt bạc, lại cự đánh viên tri huyện Vũ Văn Thụ. Dinh thần Quảng Đức tâu lên, vua Minh Mạng sai đem Quý chém. Thiệu Hóa công sợ hãi gặp vua xin nhận tội. Vua mắng “Công thực thà nhưng quá nhu nhược nên thuộc hạ sinh nhờn”. Thuộc phủ của công là cai đội Lê Văn Đắc bị tội đánh trượng và cách chức.
Năm Minh Mạng thứ 4, Kiến An công Nguyễn Phúc Đài (con thứ năm của vua Gia Long), sai thuộc viên trong phủ là Lê Văn Quát đi Hà Nội mua ngựa. Quát đi thẳng lên Cao Bằng, yêu sách của dân, tuần phủ Lạng Sơn là Hoàng Văn Quyền đem việc ấy tâu lên vua biết, Quát bị luận tội phải xử tử, Kiến An công cũng bị phạt bổng một năm.
3. Thái trưởng công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Du là con thứ tám của chúa Nguyễn Phúc Luân, là em của vua Gia Long và cô của vua Minh Mạng. Bà được gả cho chưởng hậu quân, tham tặng bình tây đại tướng quân Võ Tánh, một công thần phục quốc của vua Gia Long, đã chết trong trận quân Tây Sơn vây thành Bình Định năm 1801 trước khi vua Gia Long hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước.
Vua Minh Mạng nghe nói đầy tớ nhà thái trưởng công chúa Ngọc Du cậy thế lấn người, mà chúa không cấm, mới vời con của bà là khinh xa đô úy Võ Khánh đến trách rằng: “Nước có điển hình, sao mày không khuyên mẹ mày đi?”. Khánh thưa rằng: “Không thể khuyên can được”. Vua bảo rằng: “Làm con thờ cha mẹ nên lấy lời nói dịu dàng can ngăn ở lúc việc chớm phát, để cha mẹ đừng mắc vào điều phi nghĩa, không thế thì trách nhiệm ở mày”. Sử sách không ghi rõ sau đó đầy tớ nhà công chúa có bớt chèn ép người dân không, nhưng lời răn dạy của vua Minh Mạng cũng đáng để cho hậu thế học tập.
4. Điện Bàn công Nguyễn Phúc Phổ, là con thứ tám vua Gia Long. Năm Minh Mạng thứ 7, ông dám tự tiện đặt quan chức, làm riêng ấn tín trong phủ. Việc phát giác ra, ông đến cửa khuyết xin nhận tội. Vua ra lệnh phạt bổng thân công ba năm, triệt bỏ thuộc binh đi, còn có dụ răn bảo rất nghiêm khắc và cho bắt trưởng sử thuộc phủ đệ ấy là Nguyễn Văn Bảo giao cho bộ hình trị tội. Từ đấy Điện Bàn công hối hận, không dám làm bậy.
Thiệu Hóa công Nguyễn Phúc Thiện Khuê, là con Thiệu Hóa quận vương Nguyễn Phúc Chân (con thứ chín vua Gia Long), vì tiêu xài hoang phí, hết sạch tài sản trong nhà, phải đem kim sách, ngân sách (là sắc phong tước làm bằng vàng và bạc vua ban cho các hoàng tử) đi cầm cố. Việc bị phát giác, vua Thiệu Trị giận, cho giáng làm Thiệu Hóa đình hầu. Sau biết hối hận đổi lỗi, năm Tự Đức thứ 13 (1860), được khôi phục nguyên tước công.
Kỳ Phong quận công Hồng Đĩnh, con thứ 23 của vua Thiệu Trị, tính kiêu túng, vua thường nghiêm trách. Đời Tự Đức, Kỳ Phong công tự tiện đánh lính canh cửa, bị phạt 2 năm lương. Năm Tự Đức thứ 31, cậy quyền nạt người sách nhiễu tiền của, bị phát giác, phải giáng làm hoàng tử (cắt tước công). Khi vua Kiến Phúc chết, do không có mặt tại lễ phát tang nên bị khép vào luật “Thác cố bất triều”, giáng làm thứ nhân, đổi sang họ mẹ. Mãi sau này khi ông chết, mới được khai phục lại tước Phong Hưng hầu, rồi đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi, mới được phục lại tước quận công.
Phú Lương quận công Hồng Dao, con thứ 52 của vua Thiệu Trị, đời vua Đồng Khánh vu cáo người khác là đi theo giặc để đòi hối lộ, nên bị cách chức, đổi sang họ Nguyễn của mẹ.
5. Nhiều vị vương công vì những sở thích của mình mà sách nhiễu nhân dân, các vua nhà Nguyễn biết được, cũng xử lý, chấn chỉnh nghiêm khắc.
Định Viễn công Nguyễn Phúc Bính có lần gọi người thợ mũ để chế mũ con hát, nhưng vì mưa lụt, người đó không đến, công giận, sai lính phủ bắt đánh. Thiêm sự nội vụ là Hồ Hữu Thẩm đem việc tâu lên. Vua Minh Mạng gọi quở trách: “Lỗi lần này anh tạm tha cho, nếu còn lại như thế thì có phép công, cuối cùng không thể lấy tình riêng mà bỏ phép nước được”. Công cúi đầu tạ tội. Vua sai thống chế Vũ Viết Bảo đánh mắng người cai đội thuộc phủ Định Viễn công để răn cái tội không biết can ngăn. Sau đó sắc cho bộ lại chọn người cai đội lâu năm có hạnh kiểm làm Phó Trưởng sử để giúp đỡ.
Quảng Oai công là Nguyễn Phúc Quân, con thứ 10 của vua Gia Long, tính thích chơi bời săn bắn, từng sai thuộc hạ trong phủ đòi chó săn trong dân gian. Vua biết chuyện, trách phạt Quảng Oai công và sai đánh roi trưởng sử và cai đội trong phủ của ông, còn bọn thuộc hạ thì đánh 100 trượng, sung làm nhà bếp trong quân ở các dinh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam.
6. Có khi, chỉ vì sự đùa vui của vương công mà gây hại, cũng bị xử lý nghiêm. Đó là sự việc Hải Ninh quận công Miên Trinh (con vua Thiệu Trị) bày trò chơi ở nhà quảng học, mời các công đến dự tiệc, người dân đến xem đứng kín như bức tường, đuổi đi không được. Hoằng Hóa quận công Miên Ninh nhân nói đùa dọa người, họ ngã giẫm lên nhau, có người bị thương. Quan khoa đạo là Vũ Duy Ninh đem việc ấy tâu hặc. Vua Thiệu Trị quyết định phạt Miên Ninh bổng một năm, Miên Tranh phạt bổng 6 tháng, thu 10 lạng bạc cấp cho thân nhân người bị thương. Quản gia ở phủ Hoằng Hóa quận công, Tư vụ nhà quảng học đều bị giáng, lưu. Giáo đạo Hồ Văn Nghĩa bị giáng một cấp.
Chính vì kỷ cương chặt chẽ, triều đình từ nhà vua trở xuống luôn nghiêm khắc xử lý từ các vị vương công, không thiên vị, nên những năm đầu triều Nguyễn, luật pháp rất nghiêm minh, khắp nơi đều tuân thủ. Nhà sử học Trần Trọng Kim, trong sách Việt Nam sử lược, đã nhận xét: “Đời vua Minh Mạng, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành một nước có cương kỷ”.

Lê Tiên Long
Lao động 26/11/2016

Những người thầy được vua kính trọng

Tôn sư trọng đạo là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, các vị vua cũng không ngoại lệ. 

Thậm chí, vua Duy Tân nhà Nguyễn còn cưới con gái thầy học làm vợ. Lịch sử ghi lại nhiều câu chuyện về những người thầy của các vị vua Việt Nam, từ Thái sư Lê Văn Thịnh thời Lý, Tư nghiệp Chu Văn An đời Trần, Thượng thư Nguyễn Bảo đời Lê… Thời nhà Nguyễn là triều đại phong kiến gần đây nhất, để lại nhiều sử sách nhất, cũng ghi lại nhiều câu chuyện về tấm gương các thầy giáo của các vị vua hơn cả.

Vua Duy Tân.
1. Một người thầy học được vua Gia Long rất mực tôn kính là Thị học Nguyễn Doãn Thống. Thầy Thống quê ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế, thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc của đàng Trong. Đại Nam liệt truyện, Chính biên, tập 2, quyển 12 viết về thầy “Gia thế làm quan, có học hành, tính cương trực, nghiêm chỉnh”, do đó, được người đời nể phục cả về học vấn và đạo đức.

Ban đầu, thầy được Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714 - 1765) bổ chức Thị học để lo dạy dỗ hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Chương. Sau khi Hoàng trưởng tử Chương mất sớm, thầy Nguyễn Doãn Thống vẫn tiếp tục được giao dạy các hoàng tử trong cung. Khi quân đội Lê - Trịnh chiếm Phú Xuân, thầy Nguyễn Doãn Thống ẩn ở Phú Xuân rồi tìm cách đưa gia đình vào Gia Định. Thầy vượt biển vào Gia Định, yết kiến Duệ Tôn Nguyễn Phúc Thuần tại Tam Phụ ngay năm 1775. Duệ Tông liền bổ dụng thầy Nguyễn Doãn Thống lo việc học của hoàng tôn Nguyễn Phúc Ánh, là cháu gọi Duệ Tôn bằng chú.

Năm 1777, Duệ Tôn Nguyễn Phúc Thuần và Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương bị quân Tây Sơn giết, năm sau, Nguyễn Phúc Ánh vào tuổi 17 đã được tướng sĩ tôn phong Đại nguyên soái Nhiếp chính vương. Nguyễn Ánh liền bổ dụng thầy Nguyễn Doãn Thống làm Ký lục Phiên Trấn. Đến năm 1780, Nguyễn Ánh tiếp tục được tôn phong thành Nguyễn Vương. Khi Nguyễn Vương qua Vọng Các (Bangkok, Thái Lan), thầy Nguyễn Doãn Thống không theo kịp Nguyễn Vương, đành tạm trốn trong dân. Năm 1788, Nguyễn Vương tái chiếm Gia Định, tháng, thầy được phục chức Ký lục Phiên Trấn (Gia Định). Quan Ký lục tổ chức chu toàn việc dạy và học trấn, là môi trường đào tạo và tuyển bổ nhiều người tài để phò Nguyễn Vương trong công cuộc nhất thống thiên hạ.

Đại Nam liệt truyện chỉ viết một câu mà nổi bật thành tích của thầy Nguyễn Doãn Thống: “Yêu dân, mến học trò, tiếng tăm công trạng rõ rệt”. Thầy Nguyễn Doãn Thống qua đời năm 1791 ở Gia Định, Nguyễn Vương thương tiếc, truy phong Lại Bộ.

2. Vua Thiệu Trị cũng rất mực kính trọng người thầy của mình là Nguyễn Đăng Tuân. Ông sinh năm 1772 tại làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Xuất thân trong một gia đình nho học, cha ông là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoành. Mặc dù có tài năng, nhưng vào thời Tây Sơn, Nguyễn Đăng Tuân không ra làm quan mà đi ở ẩn. Đầu đời Gia Long, ông được tiến cử vào làm việc ở Viện Hàn lâm, rồi làm Tri huyện Ngọc Sơn (nay là vùng thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa). Ít lâu sau, đổi ông về Huế sung chức Tư giảng ở Công phủ, rồi làm Thị giảng ở cung Chấn Hanh.

Sau khi được điều ra giữ nhiều chức vụ khác nhau ở Bắc Thành, Năm 1830, vua Minh Mạng sung ông làm Phó Tổng tài Quốc sử quán. Tuy nhiên, làm được một năm, thì ông xin về nghỉ, được ban hàm Tả Tham tri bộ Lễ. Đến năm 1835, ông được triệu vào triều, sung chức Sư bảo dạy các Hoàng tử. Trong số đó có Nguyễn Phúc Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị. Nhờ dạy bảo nghiêm, và nghĩ định điều lệ để dạy dỗ, ông được ban hàm Thượng thư. Được vài năm, ông lại xin về nghỉ. Khi vua Minh Mạng mất (1840), Nguyễn Đăng Tuân về triều viếng tang. Gặp lại thầy dạy cũ, vua Thiệu Trị muốn bổ ông làm Thượng thư bộ Lễ, nhưng ông khẩn thiết xin từ, chỉ dâng lên bài biểu, vừa để tạ ơn, vừa để xin vua hãy chú trọng “đạo hiếu” và “đạo trị nước”. Vua Thiệu Trị càng cảm kích, ban chỉ mời ông về triều, lại sung ông làm chức Sư bảo để dạy dỗ cho các Hoàng đệ và Hoàng tử.

Khi thấy mình đã già yếu, ông lại cố xin nghỉ. Không nỡ trái ý ông mãi, nhà vua bèn ban cho vàng bạc, đồng thời cấp thuyền công để đưa ông về quê. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), nhà vua sai quan ở Nội các mang sắc thư đến nhà thăm hỏi ông, đồng thời ban cho ông thực thụ hàm Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ. Ngoài ra, nhà vua còn sai cấp cho ông một nửa nguyên bổng hàng năm, cho người con thứ (được tập ấm làm Tư vụ) và người cháu là cử nhân Nguyễn Đăng Hành đều được ở nhà để phụng dưỡng ông. Song ông đã dâng sớ xin từ chối bổng lộc, nói rằng mình “không đến nỗi thiếu thốn”.

Mùa đông năm đó (1844), Nguyễn Đăng Tuân mất tại quê nhà, thọ 72 tuổi, được truy tặng chức Thiếu sư, và ban tên thụy là Văn Chính. Ngoài ra, nhà vua còn sắc cho ty chức cấp tiền để lo việc tang, sai quan đến tế, đồng thời lại sai lấy thơ vua làm và soạn sự trạng khắc vào bia đá, dựng nơi làng của ông.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848), nhà vua nghĩ đến công lao của ông, có làm hai bài thơ, rồi sai người đọc trong một buổi tế. Sau, sứ thần về lại nói là cảnh nhà ông quá thanh bạch, nhà vua lại sắc cho ty thuộc dựng lại nhà để thờ ông.

Đại Nam thực lục, tập 6, có ghi lại nhận xét của vua Thiệu Trị về Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân: “Đại thần Nguyễn Đăng Tuân, trong năm Minh Mạng, đức Hoàng khảo, Thái tổ Nhân hoàng đế, thận trọng trong việc kén chọn người chủ tế tự, nối dùng dõi, cần được sư phó xứng đáng nên đặc cách sai Đăng Tuân do chức hàm Tham tri bộ Lễ, sung bồi vào ghế ngồi giảng học. Trẫm khi chưa lên ngôi, mỗi lúc rỗi, ngoài giờ Hoàng khảo dạy chính sự liền cùng (Đăng Tuân) giảng luyện văn tịch, bàn bạc cổ kim, phần nhiều có thành hiệu rõ rệt. Các hoàng đệ bấy lâu nhờ sự khuyên nhủ giúp đỡ, đức cũng theo tuổi tiến lên...”

3. Cụ Nguyễn Doãn Cử (1821 - 1890), quê huyện Vũ Thư, Thái Bình, đỗ Cử nhân, được làm giảng quan của phủ Tôn Nhân, chuyên dạy con em vương hầu nhà Nguyễn. Cụ được Thị độc học sĩ - cử nhân Vũ Phạm Khải - khi nghỉ hưu đầu năm 1879, do biết được tài năng đức độ của Nguyễn Doãn Cử nên đã tiến cử vị cử nhân trẻ này thay mình. Vua Tự Đức tin ở Vũ Phạm Khải nên đã đồng ý chọn cho con cháu Hoàng tộc một ông thầy có đủ tài năng và đức độ. Cụ Doãn Cử liền được thăng hàm lâm viện thị giảng, sung Quốc sử quán biên tu, chuyên lo việc dạy học cho con cháu của vua.

Có lần, học trò là Ưng Lịch, con Kiên Thái Vương Hồng Cai không thuộc bài, thầy Cử đã phạt đòn thẳng tay, bất chấp trò là “cành vàng lá ngọc”. Sau đó thầy Cử liền dâng sớ tạ tội, cáo quan về quê cũ. Tuy nhiên vua Tự Đức chẳng những không quở trách mà còn đưa thêm roi cho thầy và nói: “Khanh quý trẫm vì nể trọng khuôn phép, chứ không phải nể quyền uy nơi trẫm. Nếu không nghiêm như vậy thì làm sao đào luyện được tài năng, hoàng tộc sẽ không có người kế nghiệp xứng đáng”.

Do vua Tự Đức bao dung và thầy Doãn Cử nghiêm khắc, nên các hoàng tử, hoàng tôn được thầy dạy dỗ đều học hành nghiêm chỉnh. Hoàng tôn Ưng Lịch sau là vua Hàm Nghi, một vị vua yêu nước.

4. Vua Hàm Nghi còn có một người thầy nữa là Nguyễn Nhuận (Nguyễn Văn Nhuận), quê ở làng Quảng Xá, xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình. Thầy Nhuận dù chỉ đỗ cử nhân, nhưng được kính nể không chỉ vì trí tuệ uyên thâm mà còn cả sự liêm khiết, quang minh. Sau một thời gian mở trường dạy ở quê, ông được mời vào kinh dạy con cháu hoàng tộc, trong đó có Hoàng thân Ưng Lịch.

Vua Hàm Nghi.
Sau khi vua Kiến Phúc mất, năm 1884 triều đình tôn Hoàng thân Ưng Lịch lên làm vua. Nhớ ơn thầy, vua Hàm Nghi muốn phong cho Nguyễn Nhuận một chức quan. Nghĩ đến Quảng Bình có vùng đất Tuyên Hóa nghèo khổ lại toàn là núi rừng, dân chúng ít học, thầy Nguyễn Nhuận đã xin được về Tuyên Hóa nhận chức Tri huyện.

Thời gian cụ làm quan ở huyện này, toàn huyện không có ăn xin ăn mày, không có trộm cắp, vườn tược thông thương, hoa quả không bị mất trộm, nhà nhà không phải đóng cửa khi chủ đi vắng…

Hiện ở làng Quảng Xá vẫn lưu giữ đôi cấu đối sơn son thếp vàng, nói về mảnh đất sinh ra bậc “vương sư” này: “Thiên địa hữu sinh thiên địa ngẫu/ Đế vương chi hậu đế vương sư” (có nghĩa: “Sinh ra trời đất là quy luật tự nhiên/ Sinh ra vua phải có thầy dạy vua”).

Năm 1885, vua Hàm Nghi đem gia quyến cùng Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết rời bỏ kinh thành ra Quảng Bình, Quảng Trị, phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, đánh lại người Pháp để cứu nước. Mãi đến năm 1888, người Pháp mới bắt được vua Hàm Nghi. Tuy nhiên, nhà vua nhất định không nhận mình là vua. Mãi đến khi người Pháp đem thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua liền đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người Pháp mới yên trí đó chính là vua Hàm Nghi và đày vua sang Algeria.

Còn rất nhiều câu chuyện xúc động về đạo thầy trò của các vị vua như mối lương duyên giữa thầy Mai Khắc Đôn với học trò là vua Duy Tân, khi nhà vua nhất mực xin cưới con gái thầy làm vợ. Hoặc câu chuyện về sự quý trọng của vua Thành Thái với thầy học là Đại thần Nguyễn Trọng Hợp, khi vua ngự giá Bắc thành đã đến tận nhà thầy ở Kim Giang để thăm hỏi. Tất cả đều chứng minh cho đạo lý sáng ngời: Người Việt Nam, từ vua chúa đến thứ dân, ai cũng một lòng tôn sư trọng đạo.

Lê Tiên Long
(Lao động, 20/11/2016)

Quy định ban hành văn bản thời xưa

Thời xưa đã có quy định rất rõ ràng về việc viết văn bản, ký tên, đóng dấu như thế nào. Triều đình nghiêm cấm các quan lại dùng ấn công đóng vào thư riêng, viên quan nào vi phạm thì chiếu luật để trị tội.

1. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Thái Tổ ngay sau khi lên ngôi đã xuống chiếu quy định về việc ban hành văn bản: “Nếu quân hay dân có dâng thư nói việc gì thì phải theo đúng quốc hiệu (Đại Việt), đô hiệu (tên kinh đô – Đông Kinh), niên hiệu như trong chiếu thư, ai trái thế thì phải xử phạt trượng hay biếm chức; những giấy tờ, văn khế, khoán ước về mua bán, đổi chác, vay mượn mà không theo đúng như trong chiếu thì sẽ không có giá trị”.

Đến đời Lê Thánh Tông, năm 1468, nhà vua đã chỉ thị cho bộ lễ bàn định quy cách giấy tờ trong dân gian để ban hành trong cả nước. Đến tháng 7 năm Tân Mão (1471), vua cho ban hành thể thức bản đồ và văn khế, có hiệu lực thi hành từ ngày mồng 10, tháng giêng năm sau, sau ngày đó nếu ai không tuân theo thì cho là không hợp lệ.

Ấn vàng Hoàng đế tôn thân chi bảo, chế tác tháng 10 năm Minh Mạng thứ 8 (1827), nặng 8.989 gram. Ấn dùng để đóng trên các văn bản khuyến giáo dân chúng, hoặc sắc bằng khen tặng các nhân vật hiếu hạnh, tiết nghĩa.
Đến triều Nguyễn, Đại Nam thực lục ghi: Tháng 2 năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long đặt quốc hiệu là Việt Nam, ngày Đinh Sửu, vua xuống chiếu bố cáo trong ngoài rằng: “Đế vương dựng nước trước hết phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ sự nhất thống… sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh trời, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay kính cáo thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta, việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được xưng hiệu cũ là An Nam nữa”.

Năm 1838, sau khi quyết định đổi tên nước thành Đại Nam, Minh Mạng đã ra sắc chỉ nhấn mạnh: “Việc ghi quốc hiệu lên văn bản là vấn đề hệ trọng có liên quan đến quốc thể, từ nay quốc hiệu phải gọi là Đại Nam, mọi văn bản, giấy tờ đều phải ghi như vậy”.

2. Các văn bản thời phong kiến đều phải ghi niên hiệu. Ví dụ: Thuận Thiên năm thứ nhất (1428, Lê Thái Tổ), Gia Long năm thứ ba (1805), và ngày tháng ban hành. Thời Lê Thánh Tông, có nhiều quy định về ký văn bản được ban hành. Năm 1446, vua quy định: “Văn bản của các nha môn nếu chánh quan khuyết hoặc đi vắng thì quan tá nhị thay giữ ấn tín của nha môn ấy ký tên ở dưới chỗ đề năm tháng”. Năm 1478, Thánh Tông định lệ ký tên cho người đứng đầu các nha môn: “Các bản tâu và mọi giấy tờ việc quan, quan thủ lĩnh các nha môn ký tên vào cuối tờ giấy…”.

Năm Hồng Đức thứ 14 (1483), ra sắc chỉ rằng: “Kể từ nay, sáu bộ có bản tâu và hết thảy công văn các việc đều phải ký tên ở cuối tờ giấy như các quan kinh lịch và thủ lĩnh thừa ty ở các xứ”. Năm 1484 lại ra quy định: “Các bản tâu và đề của các quan viên trong ngoài thì chính viên quan phụ trách phải ký tên, không được sai lại viên viết chữ ký thay”. Như vậy, văn bản bắt buộc phải có chữ ký của người có thẩm quyền và đúng chỗ.

Triều Nguyễn đã thừa kế các quy định về ký văn bản của triều Lê, đồng thời đã đề ra một số quy định: Văn bản trước khi đưa cho người có trách nhiệm duyệt ký để ban hành thì phải cử người kiểm tra lại cẩn thận; văn bản tâu trình lên nhà vua ngoài chữ ký của người đứng đầu cơ quan (hoặc cấp phó), thì người thảo văn bản (phụng thảo) và người soát xét lại văn bản (phụng khảo) đều phải ghi tên mình vào văn bản đó. Hai quan này đều phải chịu trách nhiệm liên đới với nhau về nội dung văn bản tâu trình.

3. Việc quản lý con dấu được các triều đại coi trọng hơn so với chữ ký, xem con dấu là yếu tố thông tin quan trọng nhất để đảm bảo hiệu lực pháp lý và tính chân thực của văn bản, đặc biệt là thể hiện quyền uy của hoàng đế và của cả vương triều. Triều Lê, các con dấu của nhà vua được đúc bằng vàng và bạc. Quy định của triều Lê về đóng dấu văn bản và quản lý con dấu như sau: Các văn bản do các nha môn ban hành đều phải đóng dấu; xử phạt rất nặng những vi phạm về thể thức đóng dấu văn bản, làm dấu giả hoặc dùng dấu giả đóng vào văn bản. 

Quốc triều hình luật có quy định nếu đóng dấu vào sổ sách công bị thiếu sót phạt 80 trượng. Nếu cố ý đóng gian thì xử phạt nặng hơn: Bị biếm chức hoặc bị tội đồ.

Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng cũng quy định và xử phạt việc đóng dấu và quản lý dấu. Đối với các loại sổ sách đóng thành tập, phải đóng dấu kiềm vào chỗ giáp lai. Trong văn bản, những chỗ tẩy xóa, sửa chữa, những chỗ viết số liệu đều phải đóng dấu kiềm lên hoặc vào bên cạnh để ngăn ngừa sự tẩy xóa, sửa chữa.

Các trường hợp đóng sót hoặc không đóng dấu đều bị xử phạt nghiêm. Nếu xảy ra sai sót thì cả người trực tiếp làm công tác văn thư và người quản lý công việc này đều bị phạt. Quy định ghi rõ: “Phàm các nha môn làm giấy tờ gửi đi nơi khác mà đóng dấu ấn sót một chỗ cần phải đóng thì lại điển, quan thủ lĩnh soát lại và người phát đi đều phải phạt 60 trượng. Nếu không đóng ấn thì phạt 80 trượng. Nếu giấy tờ nào đóng sót hoặc không đóng ấn khiến cho việc điều bát binh mã, cung cấp quân nhu, tiền lương cho nơi biên giới bị trở ngại thì đều bị phạt 100 trượng”.

Một bản tấu của đình thần, triều Nguyễn.
4. Vua Minh Mạng cũng nghiêm cấm việc sử dụng dấu sai nguyên tắc như dùng ấn công đóng vào văn bản riêng. Theo chỉ dụ của nhà vua, phàm các quan viên lớn nhỏ ở các doanh, trấn có viên nào đem ấn công đóng vào thư riêng thì chiếu luật vì chế trị tội. Nếu có sự mưu cầu gì ở trong ấy thì tùy theo mức nặng nhẹ mà luận tội. Đến thời vua Thiệu Trị lại quy định thêm: “Ai đã được cấp riêng dấu quan phòng thì trong tập tự tâu bày mới được đem dấu quan phòng cấp riêng, thì cho phép ký tên đè lên, không được lấy ấn công của bản nha dùng vào tập tự tâu bày của mình”.

Minh Mạng còn quy định, nếu nội dung văn bản không phải là việc công mà quan phụ trách bắt phải đóng dấu thì nhân viên của phòng dấu được phép làm văn bản báo cáo lên cấp trên. Nếu nhân viên phòng dấu vị nể mà che giấu, khi sự việc bị phát giác thì quan phụ trách đó sẽ bị kết tội là thủ phạm, nhân viên phòng đóng dấu bị quy là tòng phạm. Nếu không có xác nhận của thủ trưởng cơ quan mà nhân viên phòng đóng dấu tự tiện đóng dấu trộm sẽ bị xử tội nặng.

Theo quy định ban hành năm Minh Mạng thứ 2, định lệ các nha đóng ấn như sau: Bửu của vua đóng trên chữ niên (chỗ ghi ngày tháng phát hành văn bản, như: Minh Mạng nhị niên, tam nguyệt); ấn đại tiểu nha môn đóng trên chữ “nguyệt”; để phân biệt kẻ tôn người ti và phòng cạo tẩy; ấn tam nha hội đồng theo thứ đóng hai bên chữ “nguyệt”.

Từ năm Minh Mạng thứ hai, cũng mới bắt đầu đúc ấn đồng cho quan các dinh, trấn, đạo, phủ, châu, huyện. Các phủ, châu, huyện trước đó đều dùng triện gỗ, đến lúc này mới đúc ấn đồng và khắc bốn chữ triện “tên phủ + ấn” hoặc “tên châu + ấn” (ví dụ: Ứng Hòa phủ ấn).

Minh Mạng năm thứ 3 quy định ấn của dinh trấn đạo thì núm hình con hổ, dây màu tía, đóng dấu son. Ấn phủ huyện châu núm thẳng, phủ thì dây xanh, đóng dấu màu hồng. Huyện châu thì dây đen, đóng dấu màu tía.

Minh Mạng thứ 7 định cách thức làm triện vuông cho quan văn võ từ tứ phẩm trở lên. Triện nhất nhị phẩm to, tam tứ phẩm nhỏ hơn một chút, khắc các chữ “họ tên + tín ký”, nhất phẩm đến tam phẩm đóng bằng son, tứ phẩm màu đỏ, ngũ phẩm trở xuống đóng bằng mực.

5. Nội dung soạn thảo trong văn bản của các triều đại cũng được coi trọng. Minh Mạng nói: “Làm vua thì một lời nói, một việc làm là người dưới xem đấy mà theo. Nếu một mực giản dị thì sinh ra nhu nhơ, một mực nghiêm khắc thì sinh ra gay gắt, gay gắt lắm thì có hại đến chính trị mà nhu nhơ thì cũng không phải là cách làm chính trị, cho nên mỗi lần trẫm giáng chỉ dụ một chữ không dám khinh suất là vì thế”.

Vua Minh Mạng thấy các văn thư chỗ ngày tháng đều dùng chữ đơn, sắc cho từ nay phải dùng chữ kép để phòng sự chỉnh sửa. Ví dụ chữ “nhất” (-), viết đơn, có thể thêm nét để sửa thành rất nhiều chữ số khác nhau, từ “nhị”, “tam”, “tứ”, “ngũ”, “lục”, “thất”, “cửu”, “thập”… do đó, con số trong văn bản phải dùng chữ “nhất kép” (壹), sẽ không thể sửa chữa được.

6. Có một câu chuyện về việc xử phạt quan lại sử dụng sai loại ấn còn ghi lại trong Đại Nam thực lục. Đó là chuyện Thự Đô thống chế hậu dinh là Bùi Văn Thái ra làm quan ở trấn, khi đóng dấu công văn gửi về triều đình vẫn dùng ấn cũ. Vua Minh Mạng xem thấy lạ hỏi: “Thái còn giữ tạm ấn cũ?”.

Vua triệu Tham tri bộ lại là Lê Đồng Lý vào trách tội, bắt cùm lại. Sau phạt Lý giáng làm Thái thường tự khanh, tham lý công việc ở bộ lễ. Thượng thư Trịnh Hoài Đức, cùng Hoàng Quỳnh, Lê Vạn Công ở văn thư phòng đều bị quở trách. 

Vua dụ bộ lại rằng: “Quan văn võ trong ngoài có chức giữ việc quan trọng thì lệ có cấp ấn quan phòng là để tỏ sự tin, phòng gian dối và trọng danh vị. Từ nay về sau có ai được cất bổ, đáng cấp ấn quan phòng, thì để thỉnh trước để đúc ấn, đến ngày ban chiếu sắc thì cấp cả một thể. Nếu viên quan nào được chọn bổ chức khác, cùng với chức cũ không có liên quan, thì nộp ấn ấy ở bộ, đưa sang văn thư phòng thu giữ”.

Lê Tiên Long
(Lao động 11/12/2016)