Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

Những địa phương xuất hiện trong tên đường phố Hà Nội

(Lao động Cuối tuần) Trước cách mạng tháng Tám, tên một số đường phố từ Hà Nội hướng ra các tỉnh đều được đặt tên theo địa phương phía cuối đường, như phố Huế (hướng vào Nam), phố Bắc Ninh (Nguyễn Hữu Huân hiện nay, hướng ra phía Bắc), Sơn Tây (hướng về phía Tây).
Đường Bắc Sơn nằm cạnh Nhà Quốc hội, nơi có Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Ảnh: Báo Kiến thức.
Phố Sơn Tây, xưa kia có bến xe đi Sơn Tây, sau đổi thành bến xe Kim Mã. Phố Huế, sau cách mạng tháng Tám, đổi tên thành phố Duy Tân, đến sau giải phóng thủ đô mới đổi lại là phố Huế.
Còn phố Bắc Ninh, thời thuộc Pháp, có một phố mang tên thống chế Pétain, đến năm 1946 mới đổi thành Bắc Ninh để ghi nhớ con đường qua cầu Long Biên hướng sang xứ Kinh Bắc. Sau này phố lần lượt đổi tên từ Phan Thanh Giản và nay, tên chính thức là phố Nguyễn Hữu Huân.
Con phố Tây Sơn, tuy cũng hướng ra ngoại thành, nhưng không được đặt tên theo địa phương hướng đến là Hà Đông. Trước kia, phố có tên Thái Hà ấp và Ngã tư Sở. Từ năm 1964, để kỷ niệm chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) của vua Quang Trung và trận Đống Đa, nơi vẫn còn dấu tích Gò Đống Đa ở đầu phố, phố được đổi tên thành Tây Sơn, địa phương tại tỉnh Bình Định, nơi phát tích phong trào Tây Sơn.
Con đường cái quan từ thành cổ Hà Nội xuôi về Nam, đoạn ngang ga Hàng Cỏ, xưa có tên là phố Hàng Lọng, đoạn từ ô Kim Liên về ngã tư Vọng gọi là đường Quan lộ. Sau ngày thủ đô giải phóng, chính quyền thành phố đổi tên cả hai phố Hàng Lọng và đường Quan lộ (hay Việt Nam đại lộ) thành đường Nam Bộ, để nhớ về một nửa đất nước đang bị chia cắt. Sau khi Tổng bí thư Lê Duẩn mất (1986), đường được đổi tên thành Lê Duẩn, nhưng nhiều người vẫn nhớ cái tên Nam Bộ, như cái tên Bách hóa số 5 Nam Bộ được nhân dân dùng mãi cho đến khi bách hóa được phá đi để xây trung tâm thương mại.
Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim (từ tháng 4 đến tháng 8.1945), bác sĩ Trần Văn Lai, thị trưởng Hà Nội, đã làm nhiều việc có ý nghĩa, như đập bỏ các tượng đài mang dấu ấn thực dân Pháp, đặt tên các đường phố theo tên các danh nhân Việt Nam thay cho tên người Pháp.
Trong đó, Ba Đình, tên ba ngôi làng tại Nga Sơn, Thanh Hóa, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp của thủ lĩnh Đinh Công Tráng năm 1886, đã được đặt tên cho quảng trường lớn nhất cạnh Dinh Toàn quyền cũ. Chính tại quảng trường này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2.9.1945. Cái tên Ba Đình sau này cũng được đặt cho tên quận trung tâm của Hà Nội.
Cũng trong những năm này, một loạt tên địa danh liên quan đến cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ - Nguyên đã được thị trưởng Trần Văn Lai đặt cho các vườn hoa ở thủ đô, như Vườn hoa Chí Linh (cạnh Bưu điện, nay là tượng đài Lý Thái Tổ), vườn Bình Than ở phố Trần Hưng Đạo (trước bệnh viện 108), vườn Chi Lăng (Canh Nông, nay là công viên Lê Nin).
Vườn hoa cạnh phủ toàn quyền cũ được đổi tên thành vườn hoa Bãi Sậy, tên cuộc khởi nghĩa cuối thế kỷ 19 tại Hưng Yên của thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật. Còn vườn bách thú Hà Nội, lúc đó đã từng được đổi tên là vườn hoa Lam Sơn, nơi nổ ra cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược của Lê Lợi tại Thọ Xuân, Thanh Hóa. Vườn hoa góc Tăng Bạt Hổ gần bệnh viện 108 được đổi tên thành vườn hoa Vụ Quang, kỷ niệm cuộc kháng chiến của nghĩa quân Phan Đình Phùng ở Hương Khê, Hà Tĩnh. Riêng vườn hoa Cửa Nam, qua thời kỳ biến động lịch sử đã từng mang hai tên địa danh lịch sử là Tây Sơn và Bắc Sơn.
Sau cách mạng tháng Tám, nhiều tên đường phố tiếp tục được đặt tên để kỷ niệm các cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Đó là tên tỉnh Yên Bái, nơi nổ ra cuộc khởi nghĩa năm 1930 của các nghĩa quân Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu, được đặt cho con phố ở cạnh phố Huế.
Còn phố Bắc Sơn, tên một huyện của tỉnh Lạng Sơn, nơi nổ ra cuộc khởi nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo năm 1940, được đặt cho con đường rất đẹp có vườn hồng cạnh Nhà Quốc hội, cuối đường có Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ.
Tên Yên Thế, vùng núi tại Bắc Giang, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, được đặt cho một con ngõ trên phố Nguyễn Thái Học.
Phố Chùa Vua hiện nay, sau Cách mạng tháng 8, đã từng được đặt tên là Tân Trào, để ghi nhớ tên làng nơi diễn ra Quốc dân đại hội đầu tiên, tháng 8.1945. Đến năm 1951, dưới thời thị trưởng Thẩm Hoàng Tín, được đổi thành Chùa Vua đến ngày nay.
Một con đường đi chéo qua góc thành cổ Hà Nội cũ, ngang qua cột cờ và hướng ra quảng trường Ba Đình, trước đây được gọi là phố Cột Cờ, từng nổi tiếng trong câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu “Nhà tôi hai bốn cột cờ, Ai thương thì đến hững hờ thì đi”, đến năm 1970 được đổi tên Điện Biên Phủ, để kỷ niệm chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam đánh tan tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp tháng 5 năm 1954.
Đường Điện Biên Phủ, xưa là đường Cột Cờ. Ảnh: Tin tức.
Cũng ở khu vực Ba Đình, một con phố nhỏ, nơi tập trung những biệt thự Pháp, được đặt tên là phố Bà Huyện Thanh Quan. Phố không được đặt theo tên người (Nguyễn Thị Hinh) mà theo bút danh của nữ nhà thơ nổi tiếng, có liên quan đến tên địa phương là huyện Thanh Quan, nay là huyện Thái Thụy, Thái Bình, nơi chồng bà làm quan.
Thời thực dân Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947-1954), chính quyền Hà Nội đổi tên các phố Tràng Tiền, Hàng Khay và Tràng Thi đổi thành những cái tên... quốc tế hóa, đó là các phố Pháp Quốc, Anh Quốc, Mỹ Quốc. Sau ngày giải phóng, các phố mới trở về tên cũ. Vườn hoa bên cạnh Nhà hát lớn, thời đó cũng được đặt cho cái tên địa danh rất xa là Ba Lê (Paris), sau năm 1954 mới được đổi thành vườn hoa Cổ Tân.
Lê Tiên Long

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

Giáo dục Việt Nam với quá trình “vứt bút lông đi, giắt bút chì”

Chữ Hán (chữ Nho) đã được sử dụng trong các triều đình phong kiến Việt Nam, trong thi cử cũng như trong đời sống nhân dân cả nghìn năm, rồi mất dần vị thế ở đầu thế kỷ 20.


Sức ép từ họng súng

Từ những tiếng súng đầu tiên trên bán đảo Đà Nẵng năm 1858, đến việc chiếm các tỉnh miền Đông Nam Bộ 1862, miền Tây năm 1867, đánh Hà Nội năm 1873, 1882… thực dân Pháp đã dùng mũi súng ép triều đình nhà Nguyễn ký các hiệp ước năm 1883, 1884, áp đặt chế độ bảo hộ lên cả 3 kỳ ở Việt Nam.

Ngay sau khi chiếm được các tỉnh Nam Kỳ, chữ Hán cũng như nền giáo dục Nho học đã bị người Pháp đã khai tử ngay lập tức. Kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ được tổ chức năm 1864 ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị Pháp chiếm. Từ năm 1878, tại miền Nam, các giấy tờ công văn của các cơ quan hành chính đã được thay thế bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Chữ Hán chính thức bị xóa bỏ khỏi cuộc sống của người dân.

Ở miền Trung, sau cuộc phản kháng của vua Hàm Nghi năm 1885 bị ghìm dưới họng súng, vua Đồng Khánh được người Pháp đặt lên ngai vàng, quyền lực của triều đình cũng bị tòa Khâm sứ thâu tóm gần hết.

Sự khai tử của một nền khoa cử

Bên cạnh sức ép từ hệ thống bảo hộ, có lẽ chính triều đình nhà Nguyễn cũng nhận thấy nền khoa cử Nho học đã quá lỗi thời, lạc hậu, không đem lại những hiệu quả thực chất trong việc tuyển chọn và đào tạo quan lại nên đã dần dần tiến đến khai tử nó.

Kỳ thi Hương cuối cùng ở miền Bắc là năm 1915 (kỳ thi này đã có phần thi viết luận bằng tiếng Pháp và quốc ngữ), và ở Huế là năm 1918 (đã bổ sung vào chương trình một bài dịch quốc ngữ ra tiếng Pháp, và một bài luận chữ Hán, một bài luận quốc ngữ, một bài luận Pháp văn).

Người ra chỉ dụ bãi bỏ chế độ khoa cử ở Việt Nam là vua Khải Định. Sau khoa thi Hội cuối cùng ngày 1.4.1919, theo quyết định của Khâm sứ Trung kỳ, những người đỗ tiến sĩ, phó bảng tại khoa thi này, tuy vẫn còn giữ được danh hiệu, học vị cũ, nhưng sẽ không có giá trị trong việc bổ nhiệm vào quan trường.

Học chữ Nho không còn là con đường tiến thân

Với quyết định không sử dụng các học vị của chế độ khoa cử Hán học cũ cho việc bổ nhiệm quan chức, những người nuôi mộng “dùi mài kinh sử” để đi thi nhằm kiếm một học vị để kiếm một chức quan hoàn toàn vỡ mộng.

Đây là thời mà nhà thơ, tú tài Trần Tế Xương cảm thấy chán ngán cho cuộc đời “đánh vật” với chữ Nho trên con đường thi cử dài đằng đẵng mà chưa thu được thành tựu, đã cảm thán qua các câu thơ:
Nào có nghĩa gì cái chữ nho

Ông nghè ông cống cũng nằm co
Chi bằng đi học làm thầy phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò
(Chữ nho)
Hoặc:
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì!
(Đổi thi)
Trong khi đó, nhiều “thầy khóa” thức thời hơn đã chuyển sang học tiếng Pháp hoặc xin vào hệ thống các trường thuộc địa để học lại từ đầu.

Sự lớn mạnh của chữ Quốc ngữ

Trong đời sống, thực dân Pháp đã đưa chữ Pháp và chữ quốc ngữ vào sách báo và mở trường dạy học. Năm 1865 soái phủ Sài Gòn cho ra đời tờ Gia Định báo là tờ công báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Sau đó, tờ báo tư nhân đầu tiên do ông Trương Vĩnh Ký, mang tên Thông loại khóa trình, xuất bản lần đầu năm 1888, cũng được in bằng chữ quốc ngữ.

Tờ báo kinh tế đầu tiên, Nông cổ mín đàm, do ông chủ người đảo Corse thuộc Pháp Paul Canavaggio xuất bản năm 1901, cũng như các tờ báo khác như Phan Yên báo, Lục tỉnh tân văn... đều dùng chữ quốc ngữ, chứng tỏ sự phổ cập và tính hữu ích của chữ quốc ngữ tại vùng Nam kỳ thời gian đó.

Qua các tờ báo đầu tiên ở Nam kỳ, có thể thấy chữ quốc ngữ vào giai đoạn này đã phát triển đến trình độ có thể sử dụng để diễn tả được gần như tất cả mọi ý niệm cũng như mọi hình thức văn chương. Các loại sách, truyện cũng đã được dịch và in bằng chữ quốc ngữ từ những năm đầu thế kỷ 20.

Trong triều đình Huế, từ năm 1932 cũng đã hoàn toàn bỏ hẳn việc dùng chữ Hán và thay thế bằng chữ Pháp hay chữ quốc ngữ cho việc ban hành các chỉ, dụ... của nhà vua.

Học chữ Pháp nuôi được thân và làm quan

Theo chân đoàn quân viễn chinh Pháp, một nhu cầu cấp thiết là đào tạo nghề phiên dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt. Trường đào tạo thông ngôn đầu tiên được thành lập năm 1861 tại Sài Gòn, mang tên trường Collège d’Adran (tên vị Giám mục mà người Việt phiên âm là Bá Đa Lộc) để đào tạo thông ngôn người Việt và cho cả người Pháp muốn học tiếng Việt. Sau đó, Trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) chính thức được thiết lập ở Sài Gòn năm 1864, ở Hà Nội năm 1905.

Học giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, tác giả bộ sách Cổ học tinh hoa, chính người đã tốt nghiệp trường Thông ngôn ở Hà Nội, sau đó dạy các trường trung học Bưởi, Sỹ hoạn…

Bên cạnh đó, để đào tạo quan lại dùng trong chính quyền Nam triều thay thế hệ thống khoa cử, thực dân Pháp đã thiết lập các Trường Hậu bổ (chuẩn bị bổ ra làm quan - Apprenti Mandarin) ở Hà Nội (sau đổi tên là trường Sỹ hoạn - Ecole des Mandarins) năm 1897 và ở Huế năm 1911. Trường tuyển chọn con của các quan lại trung cao cấp vào học, chương trình học vẫn có phần đào tạo chữ Hán, dạy quốc ngữ, nhưng chủ yếu bằng tiếng Pháp. Trường đã đào tạo ra nhiều quan lại nổi tiếng.

Chí sĩ Phan Châu Trinh, sau khi đỗ phó bảng năm 1901, đến năm 1902 vào học trường Hậu bổ trước khi được bổ nhiệm làm quan tại Bộ Lễ. Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, sau khi đỗ cử nhân năm 1906, cũng vào học trường Hậu bổ Hà Nội năm 1907, tốt nghiệp năm 1910, được bổ làm tri huyện. Thượng thư Bộ Hộ Hồ Đắc Khải, đỗ cử nhân năm 1915, cũng vào học trường Hậu bổ rồi được bổ nhiệm làm tri huyện, sau thăng đến Tổng đốc.

Đây là những bước đầu trong việc thiết lập một nền đào tạo quan lại kiểu mới của Pháp.

Nhà thơ Tản Đà đã cố thi vào trường Hậu bổ hai lần nhưng hỏng thi nên đã làm bài thơ thất ngôn bát cú than thở như sau:

Mỗi năm Hậu-bổ một lần thi
Năm ngoái, năm xưa tớ cũng đi
Cử, tú, ấm-sinh vài chục kẻ
Tây, Ta, Quốc-ngữ bốn năm kỳ.
Đĩa nghiên, lọ mực, bìa bao sách
Thước kẻ, đanh ghim, ngọn bút chì.
Lại đến O-ran là bước khó (Oral: thi vấn đáp)
Mình ơi, ta bảo: “Có thi thì...”
Sau Khoa thi Hương cuối năm 1918, chính quyền Pháp cũng tiến hành cải cách hai trường Hậu bổ, thay thế hai trường này bằng Trường Pháp chính Đông Dương (École de Droit et d’Administration). Sau năm đó, cả Bắc và Trung Kỳ hoàn toàn theo ngạch Tây để tuyển công chức làm nhân viên
hành chính.

Chữ Pháp và quốc ngữ được đào tạo rộng rãi

Nòng cốt cho việc tuyên truyền và áp đặt văn hóa chính là hệ thống giáo dục phổ thông. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ, Pháp đã thiết lập các trường để làm nòng cốt cho hệ thống giáo dục phổ thông như trung học Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho (1879) trường Quốc học Huế (1896), trường Trung học Bảo hộ (Collège du Protectorat) tức trường Bưởi Hà Nội (1908, nay là trường trung học Chu Văn An).

Trước tiên ba trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, mấy chục năm sau mới giảng dạy đến các bậc cao hơn. Hệ thống giáo dục tiểu học được mở rộng khắp nơi vào cuối thế kỷ 19. Các trường vẫn còn đào tạo chữ Hán, nhưng chương trình chính hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Như học giả Trần Trọng Kim được học tại tiểu học Pháp - Việt ở Nam Định từ năm 1897, trước khi thi vào trường Thông ngôn năm 1900. Học giả Phạm Quỳnh cũng học trường Bưởi, trước khi vào làm tại Viện Viễn Đông bác cổ năm 1908.

Từ 1910 đến 1930 hệ thống giáo dục thuộc địa đã hình thành có tính cách hệ thống. Từ 1930 đến 1945 là thời kỳ tổ chức hệ thống giáo dục cho người bản xứ của Pháp ở Việt Nam đã được hoàn chỉnh.

Đến năm 1945, nhân sự kiện Nhật lật đổ Pháp, vua Bảo Đại giao cho nhà giáo Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, với Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật là Thạc sĩ Toán học Hoàng Xuân Hãn. Bộ trưởng Hoàng Xuân Hãn đã ban hành chương trình giáo dục bằng chữ quốc ngữ trên toàn quốc. Sau cuộc cách mạng tháng Tám, chính sách phổ cập giáo dục bằng tiếng Việt tiếp tục được chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa và CHXHCN Việt Nam duy trì cho đến ngày nay.

Như vậy, sau sức ép của súng trường, đại bác hồi thế kỷ 18, những sức ép về văn hóa và nhu cầu từ chính cuộc sống của người dân trong thời gian đầu thế kỷ 20 cho đến những năm 1930, đã khiến những dấu ấn cuối cùng của nền văn hóa chữ Nho tại Việt Nam đã dần tàn lụi và đi vào quá khứ.

Tuy nhiên, với một nền văn hóa tồn tại trên một nghìn năm, những dấu ấn bằng chữ Hán được lưu giữ lại trên đất nước Việt Nam là vô cùng đồ sộ. Dù trải qua hàng trăm năm biến động của lịch sử với những cuộc chiến tranh tàn khốc, nhưng những di sản của nền văn hóa ấy còn để lại khắp nơi, và nếu không có vốn kiến thức chữ Nho đủ sâu rộng, sẽ không thể nào hiểu và khai thác hết được.

Lê Tiên Long
(Lao động 7/2017)

Những vị vua Việt từng ra nước ngoài

Trừ các vua nhà Nguyễn như Khải Định, Bảo Đại từng sang Pháp, bạn có biết những vị vua, chúa nào từng ra nước ngoài?

Xưa kia, hoàng đế thường chỉ sống ở kinh thành, thỉnh thoảng đi tuần thú các địa phương, chứ ít khi đi sang thăm nước ngoài. Vậy mà vẫn có một số vị vua Việt Nam làm điều này, sự việc đều được ghi lại trong sử sách một cách chính thống.

Vị vua có chuyến thăm "chính thức" nước ngoài của nước Đại Việt là Trần Nhân Tông. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VI chỉ chép ngắn gọn có một dòng: "Tân Sửu năm Hưng Long thứ 9, tức 1301, đời vua Trần Anh Tông, tháng 3, thượng hoàng đi chơi các địa phương, sang Chiêm Thành".

Đại Việt sử ký toàn thư xác định trong chuyến đi kể trên, thượng hoàng đã hứa gả công chúa cho vua Chiêm Thành, nhưng mãi đến tháng 2/1305, vua Chiêm mới sai sứ mang vàng bạc, hương quý, vật lạ đến kinh thành Thăng Long để dâng làm lễ cầu hôn. Năm sau, vào tháng 6, vua Trần quyết định gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân.

Ngoài Chiêm Thành, Lào (xưa gọi là Ai Lao hoặc Lão Qua) cũng là đất nước có những vị vua Việt Nam từng đặt chân đến.

Vua Khải Định là người đầu tiên có chuyến sang thăm chính thức nước Pháp, từ ngày 15/5/1922 đến 10/9/1922.
Sau đời Lê sơ, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, con của vua Lê Chiêu Tông là hoàng tử Lê Ninh được vị tướng tâm phúc Lê Quân cõng sang đất Ai Lao nuôi giấu. Đến năm 1532, Lê Ninh được đại thần nhà Lê là Nguyễn Kim tìm đón về, lập lên làm vua, tức vua Lê Trang Tông, khởi đầu triều đại Lê Trung hưng.

Gần tương tự trường hợp Lê Chiêu Tông, trong quá trình bôn tẩu gây dựng lại cơ nghiệp của chúa Nguyễn, trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn, vương tử Nguyễn Phúc Ánh từng có thời gian phải lưu vong tại Vương quốc Xiêm (Thái Lan ngày nay).

Thời Tây Sơn, sau khi hoàng đế Quang Trung đánh bại quân Thanh mùa xuân năm 1789 và lập quan hệ ngoại giao với nhà Thanh. Vua Thanh là Càn Long muốn hoàng đế Quang Trung trực tiếp sang Bắc Kinh nhân sự kiện thượng thọ vua Càn Long 80 tuổi.

Cuộc gặp gỡ hiếm hoi của ba vị vua Việt Nam
Cuộc gặp gỡ của vua Chiêu Thống, Thái Đức và Nguyễn Huệ (vua Quang Trung sau này) đã diễn ra tại kinh thành Thăng Long một ngày mùa thu năm 1786.

Sử sách sau này viết rằng Quang Trung - Nguyễn Huệ cho một người cháu là Phạm Công Trị đóng giả mình để dẫn đầu đoàn tùy tùng hùng hậu sang Trung Quốc, với chuyến đi kéo dài gần hết năm 1790.

Tuy nhiên, gần đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính, sau khi nghiên cứu các văn bản và tài liệu lưu trữ của triều đình nhà Thanh, đã xuất bản cuốn sách, đưa ra nhận định có thể vua Quang Trung đã đi chuyến đó ra nước ngoài. Vấn đề này hiện còn nhiều quan điểm khác nhau.

Sang triều Nguyễn, trừ vua Bảo Đại từng học tập từ bé ở Pháp và các vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân bị thực dân đày ra nước ngoài, vua Khải Định là người đầu tiên có chuyến sang thăm chính thức nước Pháp, từ ngày 15/5/1922 đến 10/9/1922, nhân sự kiện hội chợ thuộc địa được tổ chức ở thành phố Marseille.

Ngoài ra, một số vua Việt khác phải sống lưu vong bên nước ngoài, như hai vua nhà Hồ là thượng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương.

Vua Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) cũng phải sống ở nước ngoài cho đến khi chết sau khi quân của vua Quang Trung đại phá quân xâm lược nhà Thanh mà ông ta đưa vào nước ta.

Lê Tiên Long
Zing 7/2017

Ngoài ra còn có thêm một số vua ra nước ngoài để...đánh nhau từ Lý Thái Tông năm 1044, Lý Thánh Tông năm 1069. Ở trận chiến năm 1069, vua Lý Thánh Tông đã bắt sống vua Chiêm là Chế Củ, khiến Chế Củ phải xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý (vùng từ dãy Hoành Sơn đến dãy Bạch Mã, tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay) để chuộc mạng.

Sau đó đến Lê Thánh Tông năm 1471 với chiến tích bắt sống được vua Chiêm là Trà Toàn, và lấy đất Chiêm Thành đặt làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Cũng trong chiến dịch này, vua Lê Thánh Tông đã cho quân khắc chữ lên núi Đá Bia ở phía Nam tỉnh Phú Yên, ghi nhận cương vực Đại Việt đã được mở rộng ra đến tận nơi này.

Còn vua Trần Duệ Tông, năm 1377, cầm quân đánh thành Chà Bàn, vì thiếu kinh nghiệm trận mạc, lại chủ quan khinh địch, không nghe lời khuyên can của đại tướng Đỗ Lễ mà quân Trần bị quân Chiêm Thành đánh bại, vua cùng các đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều chết giữa trận. Đây là vua Việt Nam duy nhất chết trận ở nước ngoài.

Trong khi đó, Trần Thái Tông là vua đầu tiên... vượt biên sang Trung Quốc. Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển V, chép sự kiện năm 1241: "Vua thân chinh cầm quân vượt qua châu Khâm, châu Liêm đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống. Vào địa phận nước Tống, vua tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ. Người châu ấy không biết là ai, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua Việt, mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về".

Cuộc gặp gỡ hiếm hoi của ba vị vua Việt Nam

Cuộc gặp gỡ của vua Chiêu Thống, Thái Đức và Nguyễn Huệ (vua Quang Trung sau này) đã diễn ra tại kinh thành Thăng Long một ngày mùa thu năm 1786.

Đó là cuộc gặp gỡ giữa vua cuối cùng của nhà Lê là Lê Mẫn Đế (thường gọi là vua Chiêu Thống), vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc (Thái Đức) và em ông, Nguyễn Huệ, người sẽ trở thành vua Quang Trung chỉ mấy năm sau. Cuộc hội kiến dùng lễ "hai vua gặp nhau", hai bên không ai phải lạy ai.

Ba anh em Tây Sơn thì có 2 người làm Hoàng đế, một người làm Vương.
Sự kiện diễn ra sau chuyến ra Bắc lần thứ nhất của Nguyễn Huệ. Với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh", quân Tây Sơn đánh tan quân của chúa Trịnh Khải. Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân và phong làm Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công.

Tuy nhiên, khi đó, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc có lòng nghi kỵ Nguyễn Huệ có ý định chiếm giữ miền Bắc, đã tức tốc dẫn 500 quân từ Tây Sơn (Bình Định) ra Phú Xuân (Huế), rồi điểm thêm 2.000 quân đi gấp ra Thăng Long.

Các sự kiện này đều có chép trong chính sử. Tuy nhiên, đến đời sau, nhà Nguyễn coi nhà Tây Sơn là kẻ thù nên cũng chỉ chép sơ sài. Chỉ có trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, tuy không viết theo lối chép sử, thể hiện các sự việc này một cách rất sinh động.

Hoàng Lê nhất thống chí cho biết khi biết tin Nguyễn Nhạc ra Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh khuyên vua Chiêu Thống sắp ngọc tỷ ra hàng, lại giục quan trong triều thảo gấp tờ biểu xin hàng. Tuy nhiên, triều thần bàn bạc mấy ngày không ai dám hạ bút trước.

Đến khi vua Thái Đức ra đến nơi, vua Lê thân hành ra đón ở cửa Nam. Nhà vua đứng bên trong cửa ô, sai hoàng thân là Thanh Nguyên hầu quỳ ở bên trái đường để chào và nói thay. Vua Thái Đức cứ thế đi qua cửa ô không đáp lễ, giục ngựa đi thẳng và cho một người quay lại nói rằng:

- Quả nhân thấy nhà vua lễ độ quá, sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ, hoặc giả làm phiền cho quý thể, phải quỳ lạy mệt nhọc, rồi quả nhân phải mang tiếng là thất lễ. Bởi thế, quả nhân phải vội vã đi ngay. Xin ngự giá hãy cứ về cung, ngày khác thong thả sẽ cùng gặp nhau.

Vua Lê nghe vậy, biết là vua Tây Sơn còn ưu đãi mình, mới không bàn đến việc đầu hàng nữa.

Ngày hôm sau, mùng sáu tháng tám âm lịch, vua Thái Đức sai bày ở phủ đường của Nguyễn Huệ ba chỗ ngồi. Chính giữa kê sập của vua Thái Đức, bên trái là ghế của vua Chiêu Thống, bên phải là ghế của Nguyễn Huệ.

Cuoc gap go hiem hoi cua ba vi vua Viet Nam hinh anh 1
Tượng Tây Sơn Tam kiệt, ba anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Lữ - Nguyễn Huệ - tại Bảo tàng Quang Trung, Bình Định. Hai người trong đó đều lên ngôi vua và cùng có cuộc gặp gỡ với vua Chiêu Thống năm 1786. Ảnh: Bảo tàng Quang Trung.
Khi ngự giá của vua Lê đến cửa phủ, vua Tây Sơn sai viên quan hầu ra đón. Vua Lê đi bộ vào thềm, vua Tây Sơn đang ngồi vội bước xuống đất và đứng sang bên cạnh sập để tỏ ý kính lễ, rồi sai Nguyễn Huệ xuống dưới thềm đón tiếp và mời vua Lê ngồi vào ghế. Khi đã yên vị, vua Tây Sơn hỏi thăm:

- Hoàng thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?

Viên quan đi theo đáp lời thay vua Lê. Năm đó, vua Chiêu Thống 21 tuổi. Nguyễn Huệ khi đó mới 33 tuổi, còn Nguyễn Nhạc khoảng 40 tuổi (sử không ghi chính xác năm sinh của Nguyễn Nhạc).

Sau khi hỏi han xã giao, viên quan hầu của vua Lê ngỏ ý muốn vua Thái Đức thu nhận một vài quận ấp để làm quà khao quân, nhưng Nguyễn Nhạc từ chối, bày tỏ mong muốn "kết nghĩa láng giềng".

Sau đó, hai vua cùng quốc công Nguyễn Huệ uống trà, rồi vua Chiêu Thống ung dung ra về, vua Thái Đức đứng dậy từ biệt. Nguyễn Huệ tiễn vua Lê xuống thềm, còn vua Thái Đức đi theo một quãng, rồi né mình giật lùi về chỗ, sai viên quan hầu hộ vệ vua Lê ra khỏi phủ, lên kiệu về cung.

Vua Lê về đến cung, sai các quan trong triều tới ra mắt vua Tây Sơn. Vua Thái Đức lần lượt hỏi hết quan chức, họ tên từng người. Các quan ca tụng công đức của vua Thái Đức, xong nói: "Thánh thượng nếu như đã giúp cho nước tôi được còn, xin hãy tạm lưu tại đây, để vua nước chúng tôi nhờ cậy vào oai linh của thánh thượng. Bao giờ bốn phương đều yên, giường mối đã dựng lại, bấy giờ ngự giá hãy về cũng chưa muộn".

Đến canh hai đêm 17 tháng tám, vua Thái Đức cho người vào gõ cửa điện, chào từ biệt vua Lê, rồi sáng sớm hôm sau cùng Nguyễn Huệ bất ngờ rút toàn quân về Nam.

Sau chuyến về Nam này của anh em vua Tây Sơn, lịch sử Việt Nam bước vào một giai đoạn hết sức bất ổn. Trong Nam, vua Thái Đức đánh nhau với Nguyễn Huệ. Ngoài Bắc, thế lực Trịnh Bồng nổi lên, vua Chiêu Thống phải nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra đánh dẹp.

Khi biết tin Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền ở ngoài Bắc, Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm ra trừng trị, vua Chiêu Thống sợ hãi chạy sang Trung Quốc. Rồi sau đó đến lượt Nhậm cũng theo chân Chỉnh lộng quyền, Nguyễn Huệ lại ra quân giết luôn Vũ Văn Nhậm.

Cuối năm 1788, khi vua Chiêu Thống dẫn quân Thanh về nước, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung, xuất quân ra Bắc lần thứ ba đánh tan quân xâm lược nhà Thanh trong trận chiến mùa Xuân Kỷ Dậu. Vua Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc lưu vong đến khi chết, nhà Lê chấm dứt, nhà Thanh chính thức công nhận Nguyễn Huệ là vua của nước ta.

Nước ta lúc đó chia làm hai vùng cai trị của vua Quang Trung (từ Phú Xuân ra Bắc) và vua Thái Đức (từ Quảng Nam đến hết vùng Nam trung bộ hiện nay). Vùng đất Nam Bộ lúc đó đang là nơi hoạt động của quân chúa Nguyễn Ánh, là người sẽ thống nhất đất nước và lên ngôi với niên hiệu Gia Long chỉ hơn 10 năm sau đó.

Lê Tiên Long
(Zing 6/2017)

Chuyến 'Bắc tuần' đầu tiên của vua Gia Long

Năm 1803, vua Gia Long có cuộc "Ngự giá Bắc tuần" để nhận tuyên phong của nhà Thanh với quốc hiệu Việt Nam.

Chuyến đi kéo dài từ tháng 8/1803 đến tháng 2/1804 (tính theo âm lịch). Kế hoạch là khi nhà Thanh đưa thư nói sứ thần nhà Nguyễn là Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đã đến Yên Kinh, vua Thanh sai án sát sứ Quảng Tây là Tế Bố Sâm sang tuyên phong. Lễ tuyên phong được quy định tại cố đô Thăng Long.

Trước đó, đánh xong quân Tây Sơn, vua Gia Long đã cho Trịnh Hoài Đức vượt biển đem ấn tín nhà Thanh phong cho nhà Tây Sơn sang nộp để báo cáo. Hè 1803, vua lại sai sứ đoàn Lê Quang Định sang xin sắc phong, với ý định xin đặt quốc hiệu là Nam Việt.

Vua Càn Long không đồng ý, do sợ gây nhầm lẫn với nước Nam Việt của Triệu Đà xưa. Vua Gia Long nhiều lần gửi thư biện giải, tỏ ý nếu không chấp nhận quốc hiệu thì không xin thụ phong nữa. Vua Càn Long mới đồng ý, đổi tên thành nước Việt Nam.

Đại nam thực lục Chính biên, Đệ nhất kỷ viết, vua sai các tướng Nguyễn Văn Trương, Lê Chất, Nguyễn Đức Xuyên đem quân sở bộ và các quân Thị trung, Thị nội, Túc trực, Thần sách đi theo hầu.

Ngày 4/8/1803, vua bắt đầu khởi hành, ngày 8/8 mới đến Quảng Bình. Ngày 11/8, vua đến Nghệ An, đóng tại Hành cung Hà Trung. Vua dụ rằng dân sở tại sửa đắp đường quan cứ mỗi 15.000 trượng thì cấp cho 10.000 phương gạo, người cung ứng cỏ rơm cho voi ngựa thì mỗi ngày cấp 15 phương gạo. Cầu cống có gãy nát thì dùng quân lính mà sửa chữa, không được huy động sức dân.

Trong dịp này, vua Gia Long sắc cho các xã dân từ Nghệ An ra Bắc, ai có việc đau khổ oan khuất thì cho đến tâu bày. Vì vậy, sử đã chép "Lòng dân vui mừng".

Tới ngày 24/8, vua mới đến hành cung Nghệ An. Lúc này, một người huyện Nghi Xuân là Nguyễn Công Trứ điều trần mười việc, vua sai Bộ Lại duyệt kỹ để tâu. Nguyễn Công Trứ sau này là vị quan nổi tiếng của triều Nguyễn.

Ngày 9/9, vua Gia Long rời Nghệ An, đến ngày 13/9 dừng tại hành cung Thanh Hóa. Vua sai Đặng Đức Siêu đến Nguyên miếu (miếu thờ Trừng Quốc công thân phụ Nguyễn Kim) làm lễ yết cáo sau đó hạ chiếu lấy Gia Miêu ngoại trang, quê tổ phát tích của nhà Nguyễn làm Quý hương, huyện Tống Sơn làm Quý huyện, cho hậu duệ tổ tiên nhà Nguyễn là Nguyễn Hữu Triêm làm Cai đội, Nguyễn Hữu Kỷ làm Đội trưởng coi dân lệ thuộc để phụng giữ việc thờ cúng ở Nguyên miếu.

Ngày 9/10, thuyền ngự xuất phát từ sông Chu, vua sai Đốc trấn Thanh Hoa là Tôn Thất Chương theo hầu, sai Nguyễn Đức Xuyên đem quân bộ đi trước đến Bắc Thành. Thấy binh lính đi hộ vệ từ Phú Xuân ra mệt nhọc, nhà vua cho các binh ốm quê ở Thanh Hoa và Nghệ An về quê an dưỡng; những người quê ở Quảng Bình về Nam thì lưu ở Thanh Hoa điều trị.

Ngày 12/10, vua ra Ninh Bình, thăm núi Dục Thúy. Ngày 16/10, xa giá đến thành Thăng Long. Trong thời gian chờ phái đoàn nhà Thanh đến, vua sai diễn trận pháp của các quân, hoặc đi thăm đê ở Thanh Trì, bàn chuyện giữ đê hay bỏ đê, định lương bổng cho các quan Bắc thành.

Tháng 12/1803 sứ đoàn Lê Quang Định trở về. Tết Giáp Tý, vua Gia Long và phái đoàn tùy tùng ăn Tết tại thành Thăng Long.

Tháng 1/1804, vua Càn Long nhà Thanh sai Án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm đem cáo sắc và quốc ấn đến phong, lại ban cho vua Gia Long gấm đoạn mãng, tức gấm thêu rồng bốn móng, là phẩm phục nhà Thanh ban cho cấp hoàng tử.

Để đón tiếp sứ đoàn, vua Gia Long phái 3.500 biền binh và 30 thớt voi theo hậu mệnh sứ ở cửa quan để nghênh tiếp, 1.000 biền binh theo hậu tiếp sứ đến địa đầu Kinh Bắc đứng chờ.

Ngày 13/1/1804, vua làm đại lễ tuyên phong. Hôm ấy sáng sớm, vua sai đặt lễ bộ đại giá ở sân điện Kính Thiên đến cửa Chu tước, bến sông Nhị Hà thì bày nghi vệ binh tượng; sai thân thần Tôn Thất Chương đến công quán Gia Quất, Đô thống chế Phan Văn Triệu, Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm, Tham tri Hộ bộ Nguyễn Đình Đức đến nhà tiếp sứ ở bến sông để nghênh tiếp sứ giả.

Vua ngự ở cửa Chu tước, hoàng thân và trăm quan theo hầu. Sứ giả nhà Thanh là Bố Sâm đến, vào điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong. Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành sung việc thụ sắc, chưởng Thần võ quân Phạm Văn Nhân sung việc thụ ấn.

Lễ xong, vua mời Bố Sâm đến điện Cần Chánh, thong thả mời trà rồi lui. Vua Gia Long đặt yến ở công quán Gia Quất, tặng biếu phẩm vật. Bố Sâm nhận lấy the, lụa, vải, sừng tê, kỳ nam, còn dư đều trả lại. Vua sai thu nhận một vài thứ để yên lòng. Bố Sâm tạ từ ra về, vua sai Tôn Thất Chương đưa đi một trạm và quan hậu mệnh hộ tống ra cửa ải.

Ngay sau lễ tuyên phong, vua Gia Long lấy Lê Bá Phẩm làm Tham tri Hình bộ sung chánh sứ sang Thanh, Trần Minh Nghĩa và Nguyễn Đăng Đệ sung Giáp ất phó sứ, đem phẩm vật sang tạ.

Ngày 21/1, vua rời Thăng Long trở về và ngày 25 tới Thanh Hóa, yết Nguyên miếu, giảm tô thuế 1 phần 10 cho nhân dân từ Nghệ An ra Bắc.

Ngày 8/2/1804, vua về đến kinh sư. Từ lúc này, vua Gia Long công bố quốc hiệu là Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng suốt thời vua Gia Long và đầu thời vua Minh Mạng. Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), nhà vua mới xuống chiếu đổi quốc hiệu thành Đại Nam.

Lê Tiên Long
VnExpress 7/2017

Truyền thông thời phong kiến

Trước khi người Pháp đưa điện tín, điện báo vào Việt Nam, việc truyền thông tin, công văn đều phải dùng đến sức người, sức ngựa là chính.


Sử sách chỉ ghi chép rõ ràng về việc truyền thông từ thời nhà Lý, năm 1043 khi vua Lý Thái Tông đặt ra các nhà trạm để chuyển công văn, giấy tờ trong nước. Đường cái quan được chia ra thành từng cung đoạn, mỗi đoạn đặt một nhà trạm (dịch trạm) để chuyển công văn. Nhà trạm cũng là nơi nghỉ chân, thay ngựa, thay phu của các quan chức được sai đi công việc.

Sách về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cho biết, trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, tướng Trần Nguyên Hãn đã sử dụng bồ câu vào việc chuyển thư tín. Tuy nhiên về sau, hình thức truyền tin này không được áp dụng chính thức.

Thời nhà Lê, triều đình đặt trên hệ thống đường thiên lý 54 trạm dịch. Mỗi trạm có 12 người, trong đó có một đội phu, một đội phó và 10 phu trạm cùng 4 con ngựa. Với tỷ lệ người và ngựa như vậy, cho thấy công văn được lính trạm chuyển bằng chạy bộ là chính. Chỉ loại công văn rất quan trọng, các trạm mới dùng ngựa để chuyển.

Lính trạm ăn mặc như dân thường nhưng khi đi công vụ, họ đeo lục lạc đồng và khi trên đường đông người, họ lắc lên để dân biết mà tránh đường. Qua đò phà, phu trạm được ưu tiên đi trước. Nếu không cần gấp, phu sẽ đi bộ, còn nếu công văn khẩn thì cưỡi ngựa. Các công văn được đựng trong ống tre hoặc gỗ, có ghi số hiệu, mức độ khẩn, có niêm phong.

Đến thời Nguyễn, phu trạm được phát hỏa bài gỗ sơn trắng viền đỏ có khắc chữ tên huyện kèm hai chữ “hỏa bài”. Khi đi công vụ, họ đeo trên cổ báo hiệu đi gấp.

Với giấy tờ quan phê hai chữ hỏa tốc, phu trạm sẽ cầm các dấu hiệu như lá cờ, bó đuốc để làm hiệu cho mọi người tránh đường. Theo quy định, người dân nghe tiếng lục lạc ngựa trạm nếu không tránh đường, bị đụng phải gây thương tích thì lính trạm không bị phạt.

Thời nhà Nguyễn cả nước đặt 96 trạm dịch. Sử ghi năm Gia Long thứ 8, triểu đình “đặt thêm lính trạm từ Quảng Bình đến Bình Thuận, mỗi trạm trên 100 tên”. Từ Thừa Thiên đến Quảng Bình mỗi trạm có 80 người, từ Nghệ An đến Bắc thành đều 100 người. Mỗi trạm được cấp 3 con ngựa.

Đến giữa thế kỷ 19, tổng số trạm dịch tăng lên 133. Mỗi cung đường giữa 2 trạm cách nhau khoảng 20 km. Quãng đường từ Huế ra Hà Nội dài hơn 700 km nhưng phu trạm chỉ đi hết 8 ngày 8 đêm là đến nơi. Trong khi đó, khoảng cách từ Huế vào Gia Định (TP HCM ngày nay), nếu đi theo đường bộ hiện nay khoảng 950 km, còn đường thời xưa chưa chắc còn quanh co và dài hơn nữa. Vậy mà thời vua Gia Long, quy định tốc độ chạy trạm của quãng đường này phải là 15 ngày.

Triều đình đề ra quy định thưởng phạt đối với phu dịch trạm từ Gia Định ra Phú Xuân như sau: Đi 12 ngày là nhanh bậc nhất, 13 ngày là bậc nhì, 14 ngày là bậc ba, sẽ được hưởng các mức thưởng. Nếu đi hết 15 ngày thì không được thưởng; 16, 17, 18 ngày là chậm, phân biệt phạt roi; chậm đến 19 ngày thì bị xử tử.

Trước đây, hệ thống bưu chính cùng các dịch trạm của nhà Nguyễn thuộc về Bộ Lại, từ thời vua Minh Mạng mới đổi sang trực thuộc Bộ Binh, và lính trạm mới được cấp súng.

Đại Nam thực lục chép về thời vua Minh Mạng: “Vua cho rằng đất tỉnh Phú Yên, Bình Hòa (Khánh Hòa), Bình Thuận nhiều rừng núi, thường có thú dữ làm hại, ra lệnh cho sở tại xét trong địa hạt, có đường trạm nào nhiều thú dữ, thì cấp cho 5 khẩu súng điểu sang (điểu thương), máy Trung Quốc, kèm đủ 50 phát đạn. Nếu có công văn quan trọng thì lính trạm đeo 1-2 khẩu súng đi. Nếu gặp thú dữ, lính trạm phải bắn liền, hết đạn sẽ cho tiếp tục lĩnh”.

Vua Minh Mạng cũng đề ra quy định với ngành bưu chính: "Đặt ra bưu chính là để truyền đệ việc công. Điều cấm đã định, nhưng gần đây, các nha hoặc lạm sai lại dịch, ủy riêng thân quyến, người coi trạm thì hoặc có việc riêng đi vắng, đến khi có việc vội thì thúc giục chạy mau, hoặc việc công khẩn cấp mà bắt phu trạm chạy, còn thêm đánh đập. Lại có người giả mạo danh hiệu chức sắc, chẳng có bằng trái gì mà dọa nạt... nên truyền dụ nghiêm cấm”.

Dưới triều vua Minh Mạng, ở thành Thăng Long có hai trạm là Hà Trung (nay là phố Hà Trung, quận Hoàn Kiếm) và trạm Hà Mai (nay là phường Hoàng Mai, quận Hoàng Mai). Hà Trung là trạm đầu tiên chuyển công văn từ thành Thăng Long ra để chuyển đi các trấn (sau là tỉnh), nên rất tập nập. Cái ngõ bên cạnh phố Hà Trung ngày nay có tên là Ngõ Trạm là ghi dấu căn trạm dịch đó.

Đến thời Tự Đức bắt đầu xảy ra cuộc xâm lược của người Pháp. Khi đó, ngựa trạm phải chạy như mắc cửi báo tin chiến sự từ khắp 3 miền gửi về triều đình. Đến khi người Pháp áp đặt chế độ đô hộ, các phương thức truyền thông hiện đại của họ cũng được áp dụng, tuy nhiên hệ thống dịch trạm của triều đình nhà Nguyễn vẫn còn được sử dụng song song một thời gian dài sau đó.

Lê Tiên Long
(VnExpress 6/2017)

Thời phong kiến, quy trình xét xử vụ án như thế nào?

Nhà Lê quy định, vụ kiện nhỏ phải được xử trong 5 ngày, với hành vi mưu sát có thể kéo dài tới một năm.

Thời Lê, cả nước được chia thành 12 đạo thừa tuyên (tương đương cấp tỉnh hiện nay) và kinh đô (gọi là phủ Trung đô). Ở cấp đạo có Đô binh sứ ty (Đô ty - coi việc quân sự), Thừa chính sứ ty (Thừa ty - coi việc hành chính, dân sự) và Hiến sát sứ ty (Hiến ty - coi việc kiểm tra, giám sát và tư pháp). Dưới cấp đạo có phủ, huyện, xã.

Thời Lê Chân Tông, năm 1645, những việc kiện về hộ tịch, hôn nhân, ruộng đất, trước hết phải qua xã trưởng, rồi đến quan huyện. Huyện không xử xong thì kêu lên quan phủ. Nếu cho rằng quan phủ xét đoán không công bằng, người dân kêu lên Thừa ty. Nếu thấy Thừa ty chưa được công bằng thì kêu lên Hiến ty.

Hiến ty ở đạo xét xử không xong, vụ việc mới được đưa lên Cai đạo ngự sử (cơ quan giám sát hoạt động của các đạo). Nghi ngờ Cai đạo ngự sử xét xử vẫn chưa chuẩn thì mới kêu lên Ngự sử đài - cơ quan giám sát, kiểm soát hoạt động của toàn bộ hệ thống triều đình và các địa phương. Ngự sử đài có trách nhiệm xem xét lại kỹ lưỡng, phân biệt gian ngay từng bản án, tra xét thực trạng hối lộ của các viên quan...

Quy định thời Lê yêu cầu, các vụ án liên quan đến nhân mạng trước hết phải báo cáo với chánh tổng và xã trưởng đến khám nghiệm qua, rồi trình lên quan phủ, quan huyện. Quan phủ huyện theo đồ án khám nghiệm, trình lên hai ty Thừa, Hiến ở đạo. Thừa ty là cơ quan xét xử, có vai trò như tòa án ngày nay, còn Hiến ty thẩm định lại bản án để tuân hành.

Trong các vụ án này, nếu khổ chủ thấy hai ty Thừa, Hiến ở lộ xử chưa hợp lệ thì được phép khải lên bộ Hình để xem xét lại.

Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú, kỳ hạn xét xử về các loại kiện tụng triều Lê như sau: Kiện về hộ tịch, hôn nhân có thời hạn một tháng; kiện về ruộng đất, trộm cướp, thời hạn 3 tháng; kiện mưu sát, thời hạn là 4 tháng. Các kỳ hạn đều tính bắt đầu từ ngày bắt được nghi phạm.

Đến đời Lê Hy Tông, năm 1676, quy định về thời hạn xử án liên quan đến nhân mạng được mở rộng, cho phép xét xử trong vòng một năm. Đến năm 1687, thời hạn rút về 4 tháng như cũ.

Về việc kiểm tra, giám sát quá trình xử án, thời Lê Thần Tông (năm 1659), triều đình quy định: Nếu thấy quan huyện làm không đúng, quan phủ có quyền điều tra xem xét, trình lên Thừa ty để theo đó khải lên đến Chúa. Quan phủ mà làm không đúng thì cho phép Thừa ty khải lên. Thừa ty sai sót thì cho phép Hiến ty khải lên. Hiến ty không đúng thì cho Cai đạo khải lên. Cai đạo không đúng thì cho Ngự sử đài khải lên. Ngự sử đài không đúng thì đưa ra công đồng bàn xét. Những người bị xét khải thì tùy nặng nhẹ mà xử, nhẹ thì xử phạt, nặng thì bị biếm bãi (cách chức).

Quan xử sai bị phạt thế nào?

Đời Lê Huyền Tông (năm 1665), triều đình ban hành quy định: Án lớn mà xử không đúng thì vị quan đó bị xử biếm một tư (giảm một cấp trong hệ thống cấp bậc của quan lại), cho nộp tiền chuộc theo mức độ từ 15 đến 100 quan. Án nhỏ mà xử không đúng thì xử phạt bằng tiền, mức độ từ 5 quan tiền với quan cấp xã, 15 quan tiền với quan cấp đạo và 20 quan tiền với quan Ngự sử.

Triều Lê cũng yêu cầu hệ thống quan lại mỗi năm phải thống kê đầy đủ số lượng vụ án, số vụ đã được xét xử, từ cấp xã trở lên. Các đạo phải kê khai đủ bao nhiêu án đã xử, trong đó bao nhiêu án xử phạt, bao nhiêu án chưa xử xong, kèm theo nguyên nhân. Các bản thống kê phải được nộp lên Ngự sử đài vào hạ tuần tháng 11 hằng năm.

Đời Lê Dụ Tông (năm 1717) quy định soát vào hạ tuần tháng 10, quan phủ soát lại những án quan huyện đã xử. Thượng tuần tháng 11, Thừa ty soát lại án của phủ, huyện đã xử. Trung tuần tháng 11, Hiến ty soát lại những án của các nha môn Thừa ty và Trấn thủ Lưu thủ. Hạ tuần tháng 11, Cai đạo soát lại những án xử của Hiến ty, và Ngự sử đài cũng soát lại các án của Cai đạo từng xứ. Thời hạn soát lại các án là một tuần (tuần thời xưa là 10 ngày). Thượng tuần tháng 12, Ngự sử đài đem số án nộp lên cho Chúa và triều đình.

Năm 1718, vua Lê Dụ Tông từng ra dụ cho các quan rằng: "Gốc của việc chính trị quý nhất là bớt kiện tụng... Nay cần bàn định để cốt cho đổi thói kiện tụng, gây đạo liêm sỉ để tỏ rõ chính sách bình trị".

Lê Tiên Long
(VnExpress 7/2017)

Thời phong kiến trị gian lận thi cử như thế nào?

Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, gian lận trong thi cử bị xử tội rất nặng, người vi phạm có thể bị bắt làm nô lệ, bỏ tù cho đến xử án tử.


Năm 1673, đời Lê Gia Tông, tại khoa thi Hương, Tham chính Thanh Hóa Vũ Cầu Hối nhận tiền bạc, gửi gắm học trò làm kỳ đệ tử. Phủ doãn phủ Phụng Thiên Ngô Sách Dụ làm việc trong trường thi ngầm mang sách vở vào trường, sai gia nhân làm quyển thi đưa lẫn vào chấm lấy đỗ, xoay tiền của. Việc bị phát giác, cả hai đều bị xử đến tội đồ (bắt làm nô lệ).

Kỳ thi cuối năm 1696, Tham tụng (người đứng đầu chính quyền trong phủ chúa Định Nam vương Trịnh Căn) là Lê Hi gửi gắm con mình trong kì thi Hương cho Sách Tuân, nhưng cuối cùng quyển thi của con Lê Hi vẫn bị đánh trượt. Sách Tuân ngầm đưa quyển thi của con Lê Hi cho các khảo quan duyệt lại lần nữa, sửa từ bị đánh trượt sang lấy đỗ. Phó đô ngự sử Ngô Hải biết chuyện nhưng ém đi không tâu báo.

Sau khi sự việc bị phát giác, Sách Tuân bị xử giảo (thắt cổ chết). Ngô Hải bị bãi chức, các quan phúc, giám khảo đều bị phạt. Lê Hi là chủ mưu nhưng là quan to thì lại thoát tội.

Năm 1775, trong kỳ đệ tứ khoa thi Hội dưới thời vua Lê Hiển Tông, con trai nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt, đã đổi quyển thi cho một thí sinh khác tên Đinh Thì Trung. Khi sự việc bị phát giác, Thì Trung bị đày ra Yên Quảng, Quý Kiệt bị tước bỏ học vị cho về làm thứ dân, rồi bắt giam vào ngục cửa Đông, một thời gian sau mới được thả.

Trong kỳ thi Hương năm Minh Mạng thứ 15 (1834), tiến sĩ Ngô Thế Vinh được triều đình điều về trường thi Hà Nội làm giám khảo. Do vi phạm trường quy nên ông bị cách chức, tước học vị phải về nhà dạy học. Đến đời vua Tự Đức, năm Tự Đức thứ 9 (1856), nhờ Tổng đốc Định An là Nguyễn Đình Tân dâng sớ cho phục chức hàm cho những người có tài năng từng bị cách chức, Ngô Thế Vinh mới được khôi phục học vị tiến sĩ.

Các quan trong ngành giáo dục dính đến gian lận thi cử có thể bị xử phạt nặng gấp nhiều lần dân thường. Nếu sửa bài thi của thí sinh cũng có thể bị xử đến án tử. Điển hình là sự việc có liên quan đến "thần Siêu, thánh Quát", diễn ra dưới thời nhà Nguyễn, năm 1841, niên hiệu Minh Mạng thứ 21.

Trong kỳ thi Hương tại trường thi Thừa Thiên, Cao Bá Quát và Phan Nhạ làm sơ khảo, ngầm lấy muội đèn làm mực chữa 24 quyển bài thi của học trò, đỗ được 5 người. Quyển thi của Trương Đăng Trinh (cháu đại thần Trương Đăng Quế) nhẽ ra bị đánh hỏng thì quan phân khảo là Nguyễn Văn Siêu nói với quan nội trường cho đỗ.

Sự kiện này khiến dư luận bàn tán, triều đình tra xét. Các ông Quát, Nhạ bị khép tội xử tử, nhưng sau đó được tha cho đổi thành giảo giam hậu (giam được 3 năm thì thả). Nguyễn Văn Siêu bị tội đồ, phạt trượng nhưng sau xét lại chỉ cách chức.

Dù nặng hay nhẹ, các án trường thi vẫn là dạng “án điểm”, các triều đình phong kiến hết sức phòng ngừa và khi phát giác sẽ xử lý rất nghiêm. Bởi thời xưa quan niệm giáo dục chính là “bách niên chi kế”, là quá trình “trồng người”. Nếu xảy ra gian lận trong quá trình học tập sẽ tạo ra những con người hư hỏng, không thể sử dụng được.

Sĩ tử thời xưa chỉ có con đường chủ yếu để tiến thân là qua thi cử. Trường thi chính là khởi đầu quá trình đào tạo quan chức. Những người có “tì vết” về đường học hành thi cử thì đường tiến thân coi như khép lại.

Lê Tiên Long
(VnExpress 5/2017)

Những món ăn có tên từ tiếng Quảng Đông

Hủ tíu, vằn thắn, sủi cảo, há cảo… là các món ăn thông dụng ở Việt Nam mang những cái tên có xuất xứ từ tiếng Quảng Đông, Trung Quốc.

Do quá trình giao thương, từ hàng ngàn năm qua, ở Việt Nam có rất nhiều người Hoa sinh sống. Những lưu dân này đem rất nhiều món ăn sang phổ biến ở nước ta, góp phần làm phong phú kho tàng ẩm thực Việt. Tuy nhiên, do cách gọi tên theo âm Quảng Đông hoặc Triều Châu, Phúc Kiến, nên nhiều món trở nên khá lạ tai, khó hiểu. Mặc dù vậy, nếu chuyển qua âm Hán Việt, có lẽ tên các món ăn này lại trở nên dễ hiểu với người biết chữ Hán, nhưng cũng có thể rắc rối hơn với những người chưa từng nghe.

Một món ăn thông dụng ở khắp miền Nam, hủ tíu, nghe tên đã quen tai và biết ngay là có tên theo tiếng Quảng Đông. Ít người biết chữ này chuyển sang âm Hán Việt đọc là “quả điều”, nghĩa là sợi bột hay bánh sợi, vì món này làm kỳ công bởi việc kéo, cán sợi bột rất nhiều lần.

Hủ tíu Nam Vang ở Châu Đốc, An Giang. Ảnh: Hương Chi.
Món mì đặc sản khác được cả hai miền cùng yêu thích với sủi cảo, xá xíu, trứng luộc, rau, hẹ, tôm, gan, nước dùng đậm đà có tên nghe rất “kêu” là vằn thắn hoặc hoành thánh. Nhưng nếu dịch ra âm Hán Việt, thì nó có tên nghe rất êm tai và văn vẻ là “vân thôn”, tức là “nuốt mây”, do hình dáng của các viên sủi cảo nhìn như những đám mây bồng bềnh trắng trẻo.

Sủi cảo cũng là một món ăn được gọi theo âm Quảng Đông, có âm Hán Việt đọc là “thủy giáo”, tức là loại bánh chẻo (giáo) được luộc trong nước. Nhân của sủi cảo thường là thịt băm trộn các loại rau, gia vị. Các cửa hàng điểm tâm ở cả Việt Nam và Trung Quốc cũng như các nước trong khu vực thường làm các loại sủi cảo luộc, hấp, chiên. Trong khi đó, loại bánh hấp mà có nhân tôm được gọi là “há cảo”, âm Hán Việt là “hà giáo”, với chữ hà chính là con tôm.

Một món bánh cuốn có rau, củ, lạp xưởng, tép... chấm nước tương, thông dụng ở khắp các đường phố trong Nam, trên chục năm nay cũng xuất hiện nhiều ngoài Bắc, có tên gây tò mò là bò bía. Nhiều bạn trẻ ăn xong cứ hỏi người bán “gọi là bò mà sao chả có miếng thịt bò nào?”. Thì ra tên món này được gọi theo âm Phúc Kiến, Triều Châu, là “pò pía” mà âm Hán Việt lại phát âm là “bạc bính”, tức là bánh tráng mỏng, chính là nói về lớp bánh tráng dùng để cuộn món ăn này.

Lạp xưởng cũng là một món được gọi bằng âm Quảng Đông, mà âm Hán Việt sẽ là “lạp trường”, trong đó, “lạp” là thịt ướp, và “trường” nghĩa là ruột. Bởi món này được làm từ thịt lợn xay, trộn gia vị, rồi nhồi vào ruột lợn, ướp khô một cách tự nhiên.

Một món ăn vặt thông dụng khác là “quẩy”, trong Nam thường gọi đầy đủ tên của nó là “dầu cháo quẩy”. Đây cũng chỉ là cách phát âm theo âm Quảng Đông của chữ “du tạc khối”, trong đó “khối” chính là miếng, vì thanh quẩy làm từ hai miếng bột bé xíu dính vào nhau. Còn “du tạc” thì nghĩa là chiên trong dầu. Có người lại giải thích chữ “quẩy” là đọc từ âm "quỷ”, rồi liên tưởng đến chuyện người Trung Quốc thù gian thần Tần Cối hại chết trung thần Nhạc Phi nên làm bánh hình hai con quỷ để chiên lên nhằm nguyền rủa vợ chồng họ Tần, nhưng cách giải thích này không thuyết phục lắm.

Món nước chấm thông dụng thường được dùng với các món ăn gốc Hoa có tên gọi là xì dầu hay “Tàu vị yểu”. Món này dịch sang âm Hán Việt thì gọi là “đầu vị dầu”, tức là dầu chiết xuất từ hạt đậu ra mà thôi.

Một món ăn vặt khác được bày bán rất nhiều tại phố Bà Triệu, Hà Nội có tên cũng đậm nét Quảng Đông là “lạc rang húng lìu”. Húng lìu chính là hương liệu, tức là các thứ bột ngũ vị hương rang cùng với lạc, đem lại vị thơm ngon đặc biệt cho món ăn.

Còn rất nhiều những món ăn khác như “chí mà phù” là chè vừng đen, “lục tào xá” là chè đậu xanh, lẩu âm Hán Việt là “lô”, tức là lò lửa, phá lấu âm Hán Việt là đả lỗ, tức là thịt ướp mặn… cũng có tên gọi bắt nguồn từ âm Quảng Đông. Như vậy, các tên gọi đó đã thành những từ thông dụng chỉ các món quen thuộc với người Việt, thậm chí còn được du khách sành ăn tìm kiếm mỗi lần có dịp đến Việt Nam.

Lê Tiên Long
(VnExpress 5/2017)