Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Vụ án oan của Hậu quân Lê Chất

Tuy đã chết 10 năm, Hậu quân Lê Chất, nguyên Tổng trấn Bắc Thành, vẫn bị vướng một vụ án oan khi bị vua Minh Mạng hạch tội, mộ bị san phẳng, vợ con bị án trảm giam hậu, tịch biên gia sản.

Cuộc đời của Lê Chất, cũng giống như người bạn thân của ông là Lê Văn Duyệt, đều lập nhiều chiến công hiển hách, sau khi giúp vua Gia Long thành công mỗi người được cử trấn giữ một đầu đất nước (Lê Chất làm Tổng trấn Bắc Thành gồm toàn bộ các tỉnh miền Bắc, Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định gồm toàn bộ các tỉnh miền Nam), nhưng sau khi đã chết, đều bị vua xử tội, mãi nhiều năm sau mới được giải oan.

Trong thời vua Minh Mạng, nhà Nguyễn xảy ra 3 vụ đại án, đó là các vụ xử Hoàng tôn Mỹ Đường (con Hoàng thái tử Cảnh), Lê Văn Duyệt, Lê Chất. Các sử quan sau này đều cho rằng đây là ba vụ án oan.

Bàn thờ Lê Chất tại Lăng Ông, quận Bình Thạnh.
1. Lê Chất sinh năm 1769 (kém Lê Văn Duyệt 5 tuổi), mất năm 1826, quê ấp Bình Trị, xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, được gọi là Hậu quân Chất, nguyên là danh tướng của triều Tây Sơn, từng được phong tới chức Đô đốc.

Thuở nhỏ ông theo cha là Lê Trung học văn lẫn võ. Lê Trung theo Nguyễn Huệ từ sớm, còn Lê Chất, mãi đến năm Kỷ Dậu (1789) mới được Nguyễn Nhạc (lúc này xưng là vua Thái Đức) sử dụng, phong cho chức Thủy quân Đô tùy trông coi cửa biển Thị Nại. Sau khi Quy Nhơn thuộc về vua Cảnh Thịnh, Lê Chất được toàn quyền nắm giữ thủy binh với chức vụ Thủy sư Đô đốc.

Sau khi vua Quang Trung mất, vua Cảnh Thịnh nối ngôi khi mới 9 tuổi, triều đình Tây Sơn bắt đầu lục đục vì các cuộc tranh giành quyền lực. Nhà vua bắt giết bố, vợ Lê Chất, lại lùng bắt ông khi đó đang cầm quân tại Quảng Ngãi, khiến Lê Chất phải dùng kế “kim thiền thoát xác”, dùng thi thể người khác giả là mình, rồi trốn vào rừng núi ở Trà Bồng, Quảng Ngãi.

Sau có người dụ hàng, Lê Chất về theo hầu chúa Nguyễn Phúc Ánh, lập nhiều chiến công, tuy nhiên cũng gây nhiều hiềm khích với các đại tướng, quan lại đứng đầu triều Nguyễn như Đặng Trần Thường, Nguyễn Văn Thành, Trịnh Hoài Đức.

Tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh ra đánh Quy Nhơn. Lê Chất có nhiều công lao, giúp quân chúa Nguyễn hạ được thành, rồi theo Nguyễn Phúc Ánh về Gia Định. Năm sau, khi quân chúa Nguyễn đánh nhau với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng tại Bình Định, theo lời khuyên của Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đánh ra Phú Xuân. Đến ngày 2 tháng 5 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân.

Sau đó, Lê Chất cùng Lê Văn Duyệt được cử kéo quân vào đánh Bình Định, tuy lúc đầu bị hai tướng Tây Sơn là Trấn thủ Quảng Nam Phạm Cần Chánh và Trấn thủ Quảng Nghĩa Lê Sĩ Hoàng đánh bại, nhưng khi các tướng Tây Sơn biết tin Phú Xuân đã thất thủ, đành rút quân theo đường thượng đạo ra Bắc.

2. Trong chiến dịch đánh ra Bắc năm 1802, Lê Chất làm Khâm sai Chưởng Hậu quân, Bình Tây tướng quân, lần lượt đánh lấy các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, rồi kéo quân vào Thăng Long, bắt được vua quan nhà Tây Sơn, lập được công to, được phong tước Quận công. Khi đó, Đặng Trần Thường có lòng ghen ghét, bàn với các tướng rằng: “Chất mà được quận công thì lũ ta phải mười lần quận công”.

Lấy được Thăng Long, vua Gia Long cho đổi tên thành Bắc Thành, Nguyễn Văn Thành được cử làm Tổng trấn, Lê Chất là Hiệp Tổng trấn.

Năm 1803, ở Quảng Yên có giặc cướp, Lê Chất cầm quân đi đánh, có thắc mắc với tướng Nguyễn Văn Trương là sao Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành không đánh giặc, khiến Nguyễn Văn Thành bắt đầu gây lòng thù oán.

Năm 1820, vua Gia Long mất, vua Minh Mạng lên ngôi, Lê Chất vẫn được trọng dụng, được cử làm Tổng trấn Bắc Thành, con là trai Lê Hậu được cho lấy Trưởng Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Cửu, con gái thứ tám của vua Gia Long. Con gái Lê Chất trước đó cũng được tiến vào cung làm vợ vua Minh Mạng, sinh hạ ra Quỳ Châu Quận công Miên Liên.

Lúc đương thời, Lê Chất cùng Lê Văn Duyệt là các khai quốc công thần, được vua Gia Long nể trọng. Tuy nhiên, sau khi vua Minh Mạng lên ngôi, đối xử với hai ông có phần giảm sút, có lẽ vì thế mà cả hai ông đều sinh bất mãn. Thái độ này đã gây vạ cho cả hai ông ngay cả sau khi đã chết.

Năm 1826, Lê Chất xin tạm nghỉ chức Tổng trấn Bắc thành về Bình Định lo việc tang cho mẹ, rồi mất ở quê nhà. Vua Minh Mạng nghe tin ấy, nghỉ chầu ba ngày để tỏ lòng thương xót, tặng hàm Thiếu phó, đồng thời ban cấp tiền lụa để lo đám tang Lê Chất rất hậu hĩnh.

3. Năm 1835, sau khi Lê Văn Duyệt mất 3 năm, ở Gia Định, Lê Văn Khôi là con nuôi Lê Văn Duyệt nổi dậy làm phản, chiếm thành suốt 3 năm. Vì tội phản nghịch của con, Lê Văn Duyệt đã chết cũng bị xử tội, Tả thị lang bộ Lại Lê Bá Tú mới hạch tội Lê Chất sáu tội đại ác đáng phải xử lăng trì, và mười tội lớn nữa, trong đó gồm tám tội phải xử chém, hai tội phải xử treo cổ.

Khi đình thần nghị tội, vua Minh Mạng dụ rằng: “Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng Lê Văn Duyệt dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất phẩm đại thần, dù có mưu gian mà thần dân chưa cáo tố, thì không nỡ bắt tội. Nay đã có người tham hạch, vậy phải trái cho công, đã có triều đình pháp luật. Chuẩn cho đình thần đem mười sáu điều tội của hắn mà định rõ tội danh, vợ con cũng án luật mà nghi xử, duy con gái nào đã xuất giá cùng là cháu trai còn nhỏ thì tha”.

Các quan bàn rằng: Do Chất đã bị bắt về âm phủ nên xin truy thu bằng sắc, đào mả quan tài và chém xác bêu đầu để răn. Vợ Chất là Lê Thị Sa cũng là kẻ đồng mưu, xin xử chém ngay.
Án làm xong, đưa xuống cho các quan Đốc phủ ở các địa phương đọc và gửi ý kiến vế triều đình. Các quan ở địa phương đều tâu xin y lời nghị bàn của triều thần.

Vua Minh Mạng mới kết luận: “Lê Chất cùng với Lê Văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây cũng không là quá. Song nghĩ lại Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bị bổ áo quan, giết thây thì nắm xương thây của Chất cũng chẳng màng bắt tội”.

Sau đó, vua cho Tổng đốc Bình Phú (kiêm hai tỉnh Bình Định và Phú Yên) là Vũ Xuân Cẩn san bằng mồ mả của Lê Chất rồi dựng tấm bia đá lên đó, khắc lớn mấy chữ “Gian thần Lê Chất phục pháp xứ” (nơi gian thần Lê Chất chịu hình pháp). Vợ Lê Chất là Lê Thị Sa và các con là Lê Cận, Lê Trương, Lê Kỵ bị án trảm giam hậu.

Gia sản của Lê Chất bị tịch thu, tính ra được 22.000 quan tiền, vua hạ lệnh cho sung công, rồi cho Tổng đốc Hà Ninh là Đặng Văn Hòa đem tiền ấy cứu cấp cho dân nghèo 12 tỉnh Bắc Kỳ.

Người con gái Lê Chất tuy làm vợ vua sinh hoàng tử, cũng bị giam cho đến chết. Con Lê Chất là Lê Hậu lấy công chúa (cô ruột vua Minh Mạng) nhưng đã chết nên không liên quan.

Lê Cận, Lê Trương, Lê Kỵ bị xử chém năm 1838. Lê Thị Sa bị đưa về nguyên quán làm nô tì, cháu của Lê Chất là bọn Lê Luận được giảm tội, đày lên Cao Bằng để làm lính, đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), gặp kỳ ân xá mới được tha về.

Mãi đến khi vua Tự Đức lên ngôi (1847), Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn mới dâng biểu xin gia ơn con cháu Thái tử Cảnh, cùng xin bổ dụng con cháu các đại thần Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất. Vua nghe cảm động, cho thi hành cả. Đến năm 1868 vua Tự Đức mới truy phong cho ông chức Tả đồn Đô Thống chế.

Cuộc đời của cha con Lê Chất mang nhiều bi kịch của, cả hai ông đều lập được nhiều công trạng phục vụ cho chủ của mình, song cuối đời đều bị các vua sau đối xử bất công, tàn nhẫn. Lê Trung bị vua Cảnh Thịnh chém đầu, Lê Chất bị Minh Mạng cho san bằng mồ mả, đều là những nỗi oan thiên cổ.

Lê Tiên Long
(Lao động)

Ngày 30/4/1975 của các vị tướng

Ngày 30/4/1975 của các vị tướngSáng 30/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các ủy viên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đón nhận tin vui quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập tại phòng họp ở Nhà Con Rồng, thành cổ Hà Nội.

Theo hồi ức của đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện trong cuốn “Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng”, Bộ chỉ huy tối cao nhận tin đầu tiên về việc quân giải phóng có xe tăng dẫn đầu đang tiến vào Sài Gòn từ Đài phát thanh Nhật Bản lúc 10h. Đến 10h50, Cục 2 (Quân báo) báo cáo quân giải phóng đã vào dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn. Ngay sau đó, các đài phát thanh phương Tây cũng đưa tin này.

11h30, ông Nguyễn Duy Phê, Cục phó Cục cơ yếu mang vào phòng họp một bức điện của Trung tướng Lê Trọng Tấn (Tư lệnh cánh quân phía đông) báo cáo: Một đơn vị thuộc cánh quân phía đông đã cắm cờ lên dinh Độc Lập.

Sau khi chỉ đạo gửi bức điện “Đã nhận tin ta cắm cờ lên dinh Độc Lập lúc 11h. Các anh trong Bộ Chính trị rất vui, rất vui" lúc 12h25, đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục Chính trị điện ngay cho Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam kịp thời truyền tin thắng lợi, và chuẩn bị viết thông cáo chiến thắng. Chỉ 15 phút sau, đài ngừng buổi phát thanh thường lệ, phát đi phát lại dòng tin: Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Lẫn vào tiếng loa phóng thanh, tiếng reo hò, hoan hô chiến thắng vang dậy khắp phố phường.

12h50, tại Sở chỉ huy, có mặt thiếu tướng Cao Văn Khánh, Phó tổng Tham mưu trưởng; đại tá Lê Hữu Đức, Cục trưởng Tác chiến; đại tá Nguyễn Trọng Yên và thượng tá Phạm Chí Nhân, Cục trưởng và Cục phó Tuyên huấn. Trước tấm bản đồ thành phố Sài Gòn - Gia Định, mọi người đứng dậy, chăm chú nhìn theo hướng tay đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ.

Thượng úy Nguyễn Tiến Trỗ, cán bộ bảo vệ đại tướng, với chiếc máy ảnh hiệu Kiev, đã ghi lại hình ảnh lịch sử này.

Ảnh tư liệu chụp lúc 12h50 ngày 30/4/1975 tại Sở chỉ huy, thành cổ Hà Nội.
Trong khi đó, tại miền Nam, ngày 30/4/1975, Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đang đóng tại chỉ huy sở tiền phương - căn cứ Căm Xe thuộc xã Minh Thạch, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (nay xã Minh Tân, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương).

Khi nghe báo cáo quân giải phóng đã chiếm dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng, cả Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh reo mừng. Trong sách “Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng”, đại tướng Võ Nguyên Giáp kể về diễn biến được thuật lại tại Sở chỉ huy chiến dịch lúc đó: “Không còn là chuyện bất ngờ mà ai nấy đều giàn giụa nước mắt, siết chặt tay nhau, phấn khởi, tự hào”.

Các ông Lê Đức Thọ, đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng tại mặt trận; đại tướng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến dịch; Phạm Hùng, Chính ủy chiến dịch, xúc động ôm hôn mọi người. Thiếu tướng Đinh Đức Thiện (Phó tư lệnh chiến dịch) là người khóc ra tiếng to nhất. Thiếu tướng Trần Văn Trà (Phó tư lệnh chiến dịch) đôi mắt đỏ hoe, nghẹn ngào sung sướng. Riêng ông Phạm Hùng, mở phanh chiếc áo bà ba, vừa cười to vừa bình luận sảng khoái, vừa ra lệnh chuẩn bị tiếp quản Sài Gòn.

Trong bức ảnh lịch sử “Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh tại chỉ huy sở tiền phương”, do tác giả Võ Xuân Sáng, cán bộ bảo vệ đại tướng Văn Tiến Dũng chụp, ngoài các vị kể trên, còn có mặt thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Tham mưu trưởng chiến dịch; Lê Xuân Kiện, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng binh chủng Tăng - Thiết giáp…

Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh tại chỉ huy sở tiền phương. Ảnh tư liệu.

Chiều 30/4/1975, tại dinh Độc Lập, sau khi đưa Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh đọc lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trở về, đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn 66, sư đoàn 304, đã bị một cán bộ trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 có mặt lúc đó đã phê bình là làm việc đó mà không báo cáo cấp trên.

Trung tướng Phạm Xuân Thệ, sau là Tư lệnh quân đoàn 2, rồi Tư lệnh quân khu 1, kể trong hồi ức: “Tôi không biết nói sao, bởi thực lòng trong tình thế đó tôi chỉ nghĩ đơn giản là làm sao sớm để họ tuyên bố đầu hàng, chiến sự sẽ sớm chấm dứt, bớt đi những sự hy sinh không đáng có. Liền sau đó, đồng chí Sư đoàn trưởng Nguyễn Ân nói: Đây là Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Sư đoàn 304, sai đâu sẽ kiểm điểm sau, để cho đồng chí ấy về chỉ huy đơn vị".

Sau lúc ấy, ông Thệ lên xe về đơn vị, đi kiểm tra Tiểu đoàn 9 lúc này đã chiếm giữ Bộ tư lệnh Hải quân và cảng Ba Son, nhưng một số người dân xô vào cảng Ba Son cướp tài sản. Ông ra lệnh cho Tiểu đoàn 9 phải bảo vệ không để cho dân vào cướp phá, đóng kín các cánh cổng và tổ chức canh gác chu đáo. "Sau đó tôi về Ban chỉ huy Tiểu đoàn 9. Lúc đó khoảng 17h chiều, tôi đi tắm giặt và lấy trong balô bộ quần áo mới toanh ra mặc, còn bộ quần áo cũ do đã mặc nhiều ngày nên tôi bỏ luôn. Sau này, tôi cứ tiếc mãi vì không giữ lại bộ quần áo còn vương bụi đường mà tôi đã mặc trong giờ phút lịch sử đáng nhớ của dân tộc", ông kể.

"Khoảng 17h30 ngày 30/4, tôi về Sở chỉ huy Trung đoàn đang ở tòa nhà Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn cũ, ở trước của Dinh Độc Lập, về phía tay trái cách khoảng 500m. Về đến đây tôi gặp đồng chí Nguyễn Ân, Sư đoàn trưởng đang ở Sở chỉ huy Trung đoàn. Vừa thấy tôi, đồng chí Ân nói: Việc đưa Dương Văn Minh ra Đài Phát thanh, các cậu xử trí như thế là đúng đấy, không có gì sai sót đâu. Lúc bấy giờ tôi mới thở phào nhẹ nhõm…", ông kể tiếp.

Thiếu tướng Hoàng Đan, Phó Tư lệnh quân đoàn 2, trong hồi ký “Từ sông Bến Hải đến dinh Độc Lập”, kể về thời khắc lịch sử khi ông vào đến cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn trưa 30/4: "Khi tôi vào, Tổng thống Dương Văn Minh đã đi ra đài phát thanh. Chuẩn tưởng Nguyễn Hữu hạnh (quyền Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn) trông thấy tôi đoán là người chỉ huy, nên báo cáo về tình hình trong dinh trước lúc quân giải phóng đến, giới thiệu nhân vật chính có mặt. Tôi nói với chuẩn tướng Hạnh, ở đây còn liên lạc được với đơn vị nào, anh cho họ biết các anh đã đầu hàng không điều kiện và báo cho đơn vị đó nhanh chóng đầu hàng. Chuẩn tướng Hạnh đã liên lạc và truyền lệnh được cho nhiều đơn vị khác nhau".

"Vũ Văn Mẫu - Thủ tướng - xin phép được gặp đại diện Mặt trận với ý định bàn giao về nhà sớm. Tôi nói với ông Mẫu chúng tôi là quân nhân, vì vậy các anh cứ ở đây, ngay trong gian phòng này. Ngày mai sẽ có đại diện Mặt trận đến. Các anh cứ ngồi chơi thoải mái, hôm nay ăn thử một bữa cơm Việt cộng cho vui. Trông bọn họ cũng có vẻ yên tâm, nói cười vui vẻ với nhau", thiếu tướng Đan kể.

"Sau lúc thảo xong thông cáo số 1, khoảng 17h các đồng chí đại diện Quân đoàn 4 vào (Quân đoàn 4 được Bộ chỉ huy chiến dịch giảo nhiệm vụ chiếm dinh Độc Lập). Các đồng chí nói, các đồng chí có nhiệm vụ chiếm dinh Độc Lập nhưng vào chậm, nay xin cho bàn giao lại. Chúng tôi vui vẻ bàn giao ngay. Thật ra chúng tôi cũng muốn bàn giao nhanh để ra ngoài, nắm lại tình hình các đơn vị và trước mắt nghỉ ngơi một ít. Đã 4-5 ngày đêm không hề chợp mắt. Trên đường xe cộ, người chen chúc nhau. Chúng tôi phải hết sức vất vả và mãi 24h mới về đến Thủ Đức", ông Đan kể trong hồi ức.

Thượng tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh quân đoàn 4, kể lại với tác giả Phan Hoàng trong cuốn “Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam”: “13h30 ngày 30/4/1975, khi tôi vào đến dinh Độc Lập, được biết Dương Văn Minh cùng nội các của ông ta từ sáng sớm đến lúc ấy vẫn chưa ăn uống gì. Tất nhiên, họ sợ hãi không dám ngỏ lời. Tôi liền bảo họ: Các ông có thể nhờ người nhà đưa cơm nước và đồ cá nhân cần dùng tới, chứ đói sao chịu nổi… và đêm ấy, tôi cùng anh em binh lính nằm ngay trên hiên dinh Độc Lập nghỉ ngơi. Dù đang đói ngủ nhưng tôi không tài nào chợp mắt được. Đã nằm trong dinh Độc Lập rồi mà tôi cứ ngỡ mình đang mơ!".

Tướng Cầm kể tiếp: "Tôi nhớ hoài kỷ niệm đêm hôm đó. Tôi - Tư lệnh và anh Hoàng Thế Thiện - Chính ủy Quân đoàn 4 cùng nằm trò chuyện và ngủ ngay ngoài hiên dinh Độc Lập. Không mùng mền chiếu gối. Sáng dậy, muỗi đốt đỏ cả người. Chúng tôi đùa, muỗi Sài Gòn kinh quá! Sau này, mỗi lần gặp nhau, anh Thiện cũng hay nhắc lại kỷ niệm ấy. Cả hai cười vang”.

Tiên Long
(VnExpress 30/4)